#trái phiếu doanh nghiệp – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:36:23 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #trái phiếu doanh nghiệp – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Trái phiếu doanh nghiệp: Từ cú sẩy chân của doanh nghiệp đến giọt nước mắt nhà đầu tư https://doanhnhandautu.com/trai-phieu-doanh-nghiep-tu-cu-say-chan-cua-doanh-nghiep-den-giot-nuoc-mat-nha-dau-tu/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:53 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2782 Bom nợ trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát nổ là sự cố chấn động nhất của thị trường tài chính Việt Nam năm 2022, kéo theo sự sụp đổ niềm tin của nhà đầu tư. Làm thế nào để khôi phục lại thị trường trái phiếu sẽ là câu chuyện nóng nhất năm 2023.]]>
Bom nợ trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát nổ là sự cố chấn động nhất của thị trường tài chính Việt Nam năm 2022, kéo theo sự sụp đổ niềm tin của nhà đầu tư. Làm thế nào để khôi phục lại thị trường trái phiếu sẽ là câu chuyện nóng nhất năm 2023.
Trái phiếu doanh nghiệp: Từ cú sẩy chân của doanh nghiệp đến giọt nước mắt nhà đầu tư
Áp lực đáo hạn thời gian tới vẫn rất lớn, nên thị trường trái phiếu doanh nghiệp năm 2023 sẽ tiếp tục khó khăn

“Đại gia” bán mình trả nợ, cá nhân “sụp hố” đầu tư

Năm 2022, thị trường chứng kiến nhiều “đại gia” bất động sản phải “bán mình” trả nợ trái phiếu. Dẫu vậy, đến cuối năm, số doanh nghiệp không thể trả nợ trái phiếu đúng hạn, tìm cách giãn, hoãn với trái chủ vẫn tăng. Chỉ tính riêng số doanh nghiệp thông báo chậm trả lãi trái phiếu cho trái chủ trong quý IV/2022, danh sách đã ngày càng dài, như Công ty cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai, Công ty cổ phần Đầu tư và phát triển Bình Định, Công ty cổ phần Trung Nam, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai, Công ty TNHH Đức Việt…

Từ sự cố Tân Hoàng Minh, quả bom trái phiếu loang rộng, đạt đỉnh điểm khủng hoảng khi sự cố Vạn Thịnh Phát xảy ra. Người dân ùn ùn đi bán tháo trái phiếu bằng mọi giá, bất chấp doanh nghiệp phát hành khỏe hay yếu. Làn sóng bán tháo chạy khỏi trái phiếu (bond run) đã lan sang các quỹ trái phiếu (fund run), đẩy nhiều quỹ đầu tư trước nguy cơ mất thanh khoản tạm thời, hệ thống ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.

Theo thống kê của Hiệp hội Thị trường trái phiếu, tính đến giữa tháng 12/2022, phát hành TPDN giảm tới gần 62% so với cùng kỳ năm 2021. Phát hành trái phiếu gần như đóng băng trong nửa cuối năm 2022.

Điều đặc biệt nhất, theo ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu, năm 2022, là thị trường TPDN chứng kiến sự bất thường khi lượng TPDN mua lại trước hạn trong gần 12 tháng lên tới 200.000 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2021. Phát hành thành công thấp, mua lại trước hạn cao, nhiều doanh nghiệp đã “âm” huy động vốn qua kênh trái phiếu.

Trong khi đó, những năm qua, TPDN đã trở thành nguồn vốn chính của nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp bất động sản. Đến cuối tháng 11/2022, quy mô thị trường vốn bằng gần 105% GDP năm 2021, trong đó, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu mới đạt tương đương 64% GDP. Sau tín dụng ngân hàng, TPDN trở thành kênh huy động vốn trọng yếu của doanh nghiệp.

Hiện nay, có trên 280 doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn trung, dài hạn. TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho hay, năm 2021, các doanh nghiệp bất động sản đã phát hành 215.000 tỷ đồng TPDN và 50.000 tỷ đồng trong 10 tháng đầu năm 2022. Lượng trái phiếu đáo hạn của các doanh nghiệp bất động sản 2 năm tới cũng rất lớn (khoảng 115.000 tỷ đồng/năm), chưa tính tiền lãi. Có thể thấy, TPDN đã trở thành kênh cung ứng vốn trung và dài hạn quan trọng của các doanh nghiệp bất động sản, song cũng đặt doanh nghiệp trước nhiều rủi ro.

Thị trường TPDN gặp khủng hoảng, doanh nghiệp ngấm đòn, song các nhà đầu tư cá nhân cũng bị ảnh hưởng không kém. Theo thống kê của Bộ Tài chính, trên thị trường sơ cấp, nhà đầu tư cá nhân nắm giữ chưa đến 10% trái phiếu riêng lẻ (70% là ngân hàng và công ty chứng khoán nắm giữ). Song trên thị trường sơ cấp, 30-40% lượng TPDN lại nằm trong tay cá nhân. Đây cũng là lý do khiến hàng ngàn gia đình trở thành nạn nhân của “bom” trái phiếu năm nay.

“Năm nay, gia đình tôi đón năm mới thật buồn, toàn bộ số tiền xương máu tích cóp được mấy chục năm qua có nguy cơ biến thành giấy vụn. Mấy tháng nay, chồng tôi bỏ công, bỏ việc chạy đôn chạy đáo khắp nơi cầu cứu mà vẫn chưa biết bao giờ mới đòi lại được”, cầm hợp đồng mua trái phiếu Tân Hoàng Minh, chị Phan Thu Hiền, hiện là giáo viên một trường THPT tư thục ở Hà Nội chia sẻ.

Cũng giống như chị Hiền, hàng ngàn gia đình đã trót mua trái phiếu Tân Hoàng Minh, An Đông, VKC Holdings và hàng loạt tập đoàn chậm trả nợ trái phiếu đúng hạn khác đang mất ăn mất ngủ.

Sóng tạm êm, biển chưa thể lặng

Sau cú sốc Tân Hoàng Minh và Vạn Thịnh Phát, làn sóng bán tháo trái phiếu đã chững lại, thanh khoản thị trường dịu bớt. Mặc dù vậy, áp lực đáo hạn thời gian tới vẫn rất lớn, đồng nghĩa thị trường TPDN năm 2023 sẽ còn tiếp tục khó khăn.

Theo TS. Cấn Văn Lực, lượng TPDN đáo hạn trong 3 năm tới (2023-2025) lên tới 700.000 tỷ đồng, chưa kể tiền lãi. Nếu đổ vỡ xảy ra, hệ lụy sẽ rất phức tạp, vì mối liên thông ngân hàng – chứng khoán – bất động sản là khá lớn. Hiện nay, các ngân hàng không chỉ đầu tư vào TPDN khá lớn (khoảng 284.000 tỷ đồng), mà còn cho vay bất động sản hơn 2,3 triệu tỷ đồng, chưa kể bất động sản chiếm tới 65% tài sản đảm bảo của ngân hàng. Điều này có nghĩa, khi thị trường bất động sản và trái phiếu đổ vỡ, ngân hàng cũng không tránh khỏi hệ lụy.

Hiện nay, nhiều chuyên gia và cơ quan quản lý kêu gọi doanh nghiệp đa dạng hóa nguồn vốn huy động để đảo nợ trái phiếu. Song trong bối cảnh hiện nay, việc tìm kiếm nguồn vốn mới không đơn giản khi niềm tin suy giảm, tín dụng bị kiểm soát chặt, thị trường chứng khoán không mấy sôi động. Việc bán tài sản bất động sản của doanh nghiệp cũng không dễ dàng khi giá giảm tới 30-40%. Ngay cả doanh nghiệp tốt cũng phải lao đao tìm vốn.

Điểm sáng của thị trường lúc này là Dự thảo sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP có nhiều quy định tích cực, trong đó có đề xuất cho phép doanh nghiệp phát hành được gia hạn kỳ hạn trái phiếu thêm 2 năm, một số quy định khác cũng được tạm “hoãn” 1 năm thực hiện.

TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, dự thảo này, nếu được ban hành, sẽ giúp các doanh nghiệp phát hành có thêm 2 năm để xoay xở nguồn tiền đảo nợ, bán tài sản, tái cơ cấu nợ. Theo đó, các doanh nghiệp đến hạn thanh toán trái phiếu trong 2 năm đỉnh nợ (2023-2024), nhưng đang gặp khó khăn về thanh toán có thể đàm phán với nhà đầu tư để gia hạn sang năm 2025-2026. Mặc dù chưa thể giải quyết ngay các khó khăn trên thị trường, song các quy định trên sẽ giúp nhà đầu tư bớt lo lắng, tháo chạy khỏi trái phiếu, cải thiện thanh khoản thị trường.

Dù vậy, đây vẫn chỉ là giải pháp gỡ khó ngắn hạn về thanh khoản. Để thị trường phát triển mạnh mẽ trở lại, vẫn cần thêm các giải pháp giải quyết tận gốc, lấy lại niềm tin cho nhà đầu tư.

Kỳ vọng vào các giải pháp “tận gốc” để giữ niềm tin thị trường

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Nguyễn Công Niềm, Giám đốc Tài chính F88 cho biết, những năm qua, F88 chủ yếu huy động vốn qua kênh trái phiếu. Tuy nhiên, năm 2022, thị trường trái phiếu đóng băng, khiến doanh nghiệp không thể huy động. Ông Niềm bày tỏ hy vọng năm 2023, thị trường TPDN sẽ được khơi thông trở lại. Mặc dù vậy, đại diện doanh nghiệp này cũng cho biết, doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi cách thức phát hành trái phiếu theo hướng minh bạch hơn để tạo niềm tin cho nhà đầu tư.

Kỳ vọng vào các giải pháp “tận gốc” để giữ niềm tin thị trườngTrái phiếu doanh nghiệp là vấn đề cấp bách nhất năm 2023. Theo tôi, Chính phủ cần chỉ đạo giải quyết sớm, dứt điểm những vụ việc vừa qua, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư. Đây cũng là giải pháp quan trọng nhất để lấy lại niềm tin của thị trường và nhà đầu tư, cũng là cách để giải quyết vấn đề TPDN đáo hạn 2 năm tới.Trái phiếu doanh nghiệp là vấn đề cấp bách nhất năm 2023. Theo tôi, Chính phủ cần chỉ đạo giải

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế

“Chúng tôi sẽ phát hành TPDN trở lại vào năm 2023, nhưng sẽ chọn con đường phát hành ra công chúng, minh bạch rõ ràng hơn. Chúng tôi cũng hy vọng thủ tục phát hành ra công chúng sẽ đơn giản, rút ngắn hơn để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu gọi vốn”, ông Niềm chia sẻ.

Theo chia sẻ của nhiều doanh nghiệp, hiện nay, quá trình phê duyệt hồ sơ phát hành TPDN ra công chúng kéo dài nhiều tháng, khiến doanh nghiệp có nguy cơ bỏ lỡ cơ hội. Các chuyên gia cho rằng, cần phải rút gọn thời gian phê duyệt hồ sơ xuống còn 15-30 ngày để khuyến khích doanh nghiệp tham gia kênh này.

TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định, phát hành trái phiếu ra công chúng là con đường để minh bạch thị trường TPDN Việt Nam. Tuy vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện ngay phát hành TPDN ra công chúng.

“Phát hành TPDN ra công chúng là cần thiết, song cần thêm thời gian để doanh nghiệp chuẩn bị hồ sơ, xếp hạng tín nhiệm, minh bạch thông tin…, cũng như để Ủy ban Chứng khoán cải tiến quy trình, thủ tục. “Hoãn” thực hiện Nghị định 65 là thời gian vàng để các bên hoàn tất công tác chuẩn bị”, TS. Nghĩa nhận định.

Mặc dù gặp khủng hoảng tạm thời do sự chấn chỉnh của cơ quan quản lý, song các chuyên gia phân tích đều nhìn nhận, sự chấn chỉnh này có lợi cho thị trường về dài hạn.

“Những động thái mạnh tay của Chính phủ trong siết lại thị trường TPDN vừa qua về ngắn hạn sẽ ảnh hưởng đến thị trường vốn, nhưng trong trung, dài hạn sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Trong năm 2023, các doanh nghiệp bất động sản sẽ buộc phải định nghĩa lại câu chuyện phát hành, sẽ phải phát hành chuẩn chỉ hơn”, ông Phùng Trung Kiên, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán AIS nhận định.

Về phía Bộ Tài chính, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho hay, Bộ đang lấy ý kiến trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Về lâu dài, để phát triển thị trường TPDN an toàn, bền vững, Bộ sẽ phối hợp với các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, rà soát lại Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp để sửa đổi các quy định về điều kiện phát hành trái phiếu của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu riêng lẻ nhằm tháo gỡ các khó khăn phát sinh hiện nay.

TS. Cấn Văn Lực lưu ý, khi hoàn thiện khung pháp lý với TPDN, cơ quan quản lý cần có thêm giải pháp về phía cầu để tăng dòng tiền mới vào thị trường, cụ thể là cần có cơ chế cởi mở hơn với các nhà đầu tư tổ chức như ngân hàng, quỹ đầu tư, quỹ mở… để các tổ chức mạnh dạn đầu tư hơn vào TPDN.

]]>
Doanh nghiệp bất động sản, xây dựng phải mua lại hơn 16.000 tỷ đồng trái phiếu trong tháng 1/2023 https://doanhnhandautu.com/doanh-nghiep-bat-dong-san-xay-dung-phai-mua-lai-hon-16-000-ty-dong-trai-phieu-trong-thang-1-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:36 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2968 Theo dữ liệu của Hiệp hội thị trường trái phiếu (VBMA), tổng giá trị trái phiếu đến hạn từ nay đến hết tháng 01/2023 là gần 17.5 nghìn tỷ đồng, tập trung chủ yếu ở nhóm bất động sản và xây dựng.]]>
Theo dữ liệu của Hiệp hội thị trường trái phiếu (VBMA), tổng giá trị trái phiếu đến hạn từ nay đến hết tháng 01/2023 là gần 17.5 nghìn tỷ đồng, tập trung chủ yếu ở nhóm bất động sản và xây dựng.
Doanh nghiệp bất động sản, xây dựng phải mua lại hơn 16.000 tỷ đồng trái phiếu trong tháng 1/2023

Cụ thể, trong tháng này, doanh nghiệp bất động sản phải thanh toán 10.500 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 60% á trị TPDN đến hạn) và doanh nghiệp xây dựng phải thanh toán 5.900 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 34% giá trị TPDN đến hạn). Nếu tính cả số lượng trái phiếu mua lại trước hạn, áp lực thanh toán của doanh nghiệp lớn hơn nhiều.

Năm ngoái (tính đến ngày 30/12/2022), tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại trước hạn là 210.573 tỷ đồng (tăng 46% so với cùng kỳ năm 2021).

Trong khi đó, lượng phát hành TPDN mới giảm mạnh. Tính từ đầu năm đến 30/12/2022, giá trị phát hành trái phiếu ra công chúng từ đầu năm là 10.599 tỷ đồng, giảm 65% (chiếm khoảng 4% tổng giá trị phát hành) và giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ là 244.565 tỷ đồng, giảm 66% (chiếm khoảng 96% tổng giá trị phát hành).  

Năm 2023-2024 được coi là đỉnh đáo hạn trái phiếu với khối lượng đáo hạn lên tới gần 700.000 tỷ đồng. Theo  nhận định của Công ty Cổ phần Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), tính theo lượng đáo hạn các tháng trong năm 2023, giai đoạn giữa năm sẽ là giai đoạn căng thẳng đối với thị trường khi áp lực trái phiếu đến hạn lớn. Trong khi đó, niềm tin của nhà đầu tư giảm trong thời gian qua khiến cho lượng phát hành mới sụt giảm mạnh và dự báo khó có khả năng hồi phục trong năm 2023. Hơn nữa, mặt bằng lãi suất trong nước và quốc tế tăng cao cũng khiến dòng tiền đầu tư dịch chuyển sang kênh gửi tiết kiệm.

Hiện tại, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP theo hướng sẽ cho doanh nghiệp thêm 2 năm để giãn nợ trái phiếu, giảm áp lực đáo hạn.

Chuyên gia phân tích VNDIRECT nhận định, thị trường TPDN sẽ tương đối im lìm trong nửa đầu năm 2023. Khối lượng phát hành sẽ phục hồi đáng kể trong nửa cuối năm 2023 từ mức nền thấp của 2022, nhờ lợi nhuận của doanh nghiệp khởi sắc hơn, lãi suất ổn định và cơ chế thị trường tốt hơn.

Theo VNDIRECT, hiện quy mô TPDN trên GDP của Việt Nam là 15% và 13% đối với TPDN phát hành riêng lẻ, tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Chính phủ đang đặt mục tiêu quy mô thị trường TPDN đạt 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào năm 2030.

]]>
Áp lực đáo hạn trái phiếu, thanh khoản vẫn rất lớn https://doanhnhandautu.com/ap-luc-dao-han-trai-phieu-thanh-khoan-van-rat-lon/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:23 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3160 Áp lực đáo hạn trái phiếu vẫn rất lớn, lợi nhuận ngân hàng dự báo giảm tốc, giao dịch rút tiền mặt giảm mạnh, thanh khoản là ưu tiên lớn nhất năm 2023… là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.]]>
Áp lực đáo hạn trái phiếu vẫn rất lớn, lợi nhuận ngân hàng dự báo giảm tốc, giao dịch rút tiền mặt giảm mạnh, thanh khoản là ưu tiên lớn nhất năm 2023… là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Doanh nghiệp bất động sản, xây dựng phải mua lại hơn 16.000 tỷ đồng trái phiếu trong tháng 1/2023

Theo dữ liệu của Hiệp hội thị trường trái phiếu (VBMA), tổng giá trị trái phiếu đến hạn từ nay đến hết tháng 01/2023 là gần 17.5 nghìn tỷ đồng, tập trung chủ yếu ở nhóm bất động sản và xây dựng.

Doanh nghiệp bất động sản, xây dựng phải mua lại hơn 16.000 tỷ đồng trái phiếu trong tháng 1/2023

Cụ thể, trong tháng này, doanh nghiệp bất động sản phải thanh toán 10.500 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 60% á trị TPDN đến hạn) và doanh nghiệp xây dựng phải thanh toán 5.900 tỷ đồng trái phiếu đến hạn (chiếm 34% giá trị TPDN đến hạn). Nếu tính cả số lượng trái phiếu mua lại trước hạn, áp lực thanh toán của doanh nghiệp lớn hơn nhiều.

Năm ngoái (tính đến ngày 30/12/2022), tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại trước hạn là 210.573 tỷ đồng (tăng 46% so với cùng kỳ năm 2021).

Trong khi đó, lượng phát hành TPDN mới giảm mạnh. Tính từ đầu năm đến 30/12/2022, giá trị phát hành trái phiếu ra công chúng từ đầu năm là 10.599 tỷ đồng, giảm 65% (chiếm khoảng 4% tổng giá trị phát hành) và giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ là 244.565 tỷ đồng, giảm 66% (chiếm khoảng 96% tổng giá trị phát hành).  

Năm 2023-2024 được coi là đỉnh đáo hạn trái phiếu với khối lượng đáo hạn lên tới gần 700.000 tỷ đồng. Theo  nhận định của Công ty Cổ phần Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), tính theo lượng đáo hạn các tháng trong năm 2023, giai đoạn giữa năm sẽ là giai đoạn căng thẳng đối với thị trường khi áp lực trái phiếu đến hạn lớn. Trong khi đó, niềm tin của nhà đầu tư giảm trong thời gian qua khiến cho lượng phát hành mới sụt giảm mạnh và dự báo khó có khả năng hồi phục trong năm 2023. Hơn nữa, mặt bằng lãi suất trong nước và quốc tế tăng cao cũng khiến dòng tiền đầu tư dịch chuyển sang kênh gửi tiết kiệm.

Hiện tại, Bộ tài chính đang lấy ý kiến sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP theo hướng sẽ cho doanh nghiệp thêm 2 năm để giãn nợ trái phiếu, giảm áp lực đáo hạn.

Chuyên gia phân tích VNDIRECT nhận định, thị trường TPDN sẽ tương đối im lìm trong nửa đầu năm 2023. Khối lượng phát hành sẽ phục hồi đáng kể trong nửa cuối năm 2023 từ mức nền thấp của 2022, nhờ lợi nhuận của doanh nghiệp khởi sắc hơn, lãi suất ổn định và cơ chế thị trường tốt hơn.

Theo VNDIRECT, hiện quy mô TPDN trên GDP của Việt Nam là 15% và 13% đối với TPDN phát hành riêng lẻ, tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Chính phủ đang đặt mục tiêu quy mô thị trường TPDN đạt 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào năm 2030.

Trái phiếu doanh nghiệp: Từ cú sẩy chân của doanh nghiệp đến giọt nước mắt nhà đầu tư

Bom nợ trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát nổ là sự cố chấn động nhất của thị trường tài chính Việt Nam năm 2022, kéo theo sự sụp đổ niềm tin của nhà đầu tư. Làm thế nào để khôi phục lại thị trường trái phiếu sẽ là câu chuyện nóng nhất năm 2023.

Áp lực đáo hạn thời gian tới vẫn rất lớn, nên thị trường trái phiếu doanh nghiệp năm 2023 sẽ tiếp tục khó khăn

Năm 2022, thị trường chứng kiến nhiều “đại gia” bất động sản phải “bán mình” trả nợ trái phiếu. Dẫu vậy, đến cuối năm, số doanh nghiệp không thể trả nợ trái phiếu đúng hạn, tìm cách giãn, hoãn với trái chủ vẫn tăng. Chỉ tính riêng số doanh nghiệp thông báo chậm trả lãi trái phiếu cho trái chủ trong quý IV/2022, danh sách đã ngày càng dài, như Công ty cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai, Công ty cổ phần Đầu tư và phát triển Bình Định, Công ty cổ phần Trung Nam, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai, Công ty TNHH Đức Việt…

Trái phiếu doanh nghiệp: Từ cú sẩy chân của doanh nghiệp đến giọt nước mắt nhà đầu tư

Từ sự cố Tân Hoàng Minh, quả bom trái phiếu loang rộng, đạt đỉnh điểm khủng hoảng khi sự cố Vạn Thịnh Phát xảy ra. Người dân ùn ùn đi bán tháo trái phiếu bằng mọi giá, bất chấp doanh nghiệp phát hành khỏe hay yếu. Làn sóng bán tháo chạy khỏi trái phiếu (bond run) đã lan sang các quỹ trái phiếu (fund run), đẩy nhiều quỹ đầu tư trước nguy cơ mất thanh khoản tạm thời, hệ thống ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.

Theo thống kê của Hiệp hội Thị trường trái phiếu, tính đến giữa tháng 12/2022, phát hành TPDN giảm tới gần 62% so với cùng kỳ năm 2021. Phát hành trái phiếu gần như đóng băng trong nửa cuối năm 2022.

Điều đặc biệt nhất, theo ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu, năm 2022, là thị trường TPDN chứng kiến sự bất thường khi lượng TPDN mua lại trước hạn trong gần 12 tháng lên tới 200.000 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2021. Phát hành thành công thấp, mua lại trước hạn cao, nhiều doanh nghiệp đã “âm” huy động vốn qua kênh trái phiếu.

Trong khi đó, những năm qua, TPDN đã trở thành nguồn vốn chính của nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp bất động sản. Đến cuối tháng 11/2022, quy mô thị trường vốn bằng gần 105% GDP năm 2021, trong đó, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu mới đạt tương đương 64% GDP. Sau tín dụng ngân hàng, TPDN trở thành kênh huy động vốn trọng yếu của doanh nghiệp.

Hiện nay, có trên 280 doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn trung, dài hạn. TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho hay, năm 2021, các doanh nghiệp bất động sản đã phát hành 215.000 tỷ đồng TPDN và 50.000 tỷ đồng trong 10 tháng đầu năm 2022. Lượng trái phiếu đáo hạn của các doanh nghiệp bất động sản 2 năm tới cũng rất lớn (khoảng 115.000 tỷ đồng/năm), chưa tính tiền lãi. Có thể thấy, TPDN đã trở thành kênh cung ứng vốn trung và dài hạn quan trọng của các doanh nghiệp bất động sản, song cũng đặt doanh nghiệp trước nhiều rủi ro.

Thị trường TPDN gặp khủng hoảng, doanh nghiệp ngấm đòn, song các nhà đầu tư cá nhân cũng bị ảnh hưởng không kém. Theo thống kê của Bộ Tài chính, trên thị trường sơ cấp, nhà đầu tư cá nhân nắm giữ chưa đến 10% trái phiếu riêng lẻ (70% là ngân hàng và công ty chứng khoán nắm giữ). Song trên thị trường sơ cấp, 30-40% lượng TPDN lại nằm trong tay cá nhân. Đây cũng là lý do khiến hàng ngàn gia đình trở thành nạn nhân của “bom” trái phiếu năm nay.

“Năm nay, gia đình tôi đón năm mới thật buồn, toàn bộ số tiền xương máu tích cóp được mấy chục năm qua có nguy cơ biến thành giấy vụn. Mấy tháng nay, chồng tôi bỏ công, bỏ việc chạy đôn chạy đáo khắp nơi cầu cứu mà vẫn chưa biết bao giờ mới đòi lại được”, cầm hợp đồng mua trái phiếu Tân Hoàng Minh, chị Phan Thu Hiền, hiện là giáo viên một trường THPT tư thục ở Hà Nội chia sẻ.

Cũng giống như chị Hiền, hàng ngàn gia đình đã trót mua trái phiếu Tân Hoàng Minh, An Đông, VKC Holdings và hàng loạt tập đoàn chậm trả nợ trái phiếu đúng hạn khác đang mất ăn mất ngủ.

Sau cú sốc Tân Hoàng Minh và Vạn Thịnh Phát, làn sóng bán tháo trái phiếu đã chững lại, thanh khoản thị trường dịu bớt. Mặc dù vậy, áp lực đáo hạn thời gian tới vẫn rất lớn, đồng nghĩa thị trường TPDN năm 2023 sẽ còn tiếp tục khó khăn.

Theo TS. Cấn Văn Lực, lượng TPDN đáo hạn trong 3 năm tới (2023-2025) lên tới 700.000 tỷ đồng, chưa kể tiền lãi. Nếu đổ vỡ xảy ra, hệ lụy sẽ rất phức tạp, vì mối liên thông ngân hàng – chứng khoán – bất động sản là khá lớn. Hiện nay, các ngân hàng không chỉ đầu tư vào TPDN khá lớn (khoảng 284.000 tỷ đồng), mà còn cho vay bất động sản hơn 2,3 triệu tỷ đồng, chưa kể bất động sản chiếm tới 65% tài sản đảm bảo của ngân hàng. Điều này có nghĩa, khi thị trường bất động sản và trái phiếu đổ vỡ, ngân hàng cũng không tránh khỏi hệ lụy.

Hiện nay, nhiều chuyên gia và cơ quan quản lý kêu gọi doanh nghiệp đa dạng hóa nguồn vốn huy động để đảo nợ trái phiếu. Song trong bối cảnh hiện nay, việc tìm kiếm nguồn vốn mới không đơn giản khi niềm tin suy giảm, tín dụng bị kiểm soát chặt, thị trường chứng khoán không mấy sôi động. Việc bán tài sản bất động sản của doanh nghiệp cũng không dễ dàng khi giá giảm tới 30-40%. Ngay cả doanh nghiệp tốt cũng phải lao đao tìm vốn.

Điểm sáng của thị trường lúc này là Dự thảo sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP có nhiều quy định tích cực, trong đó có đề xuất cho phép doanh nghiệp phát hành được gia hạn kỳ hạn trái phiếu thêm 2 năm, một số quy định khác cũng được tạm “hoãn” 1 năm thực hiện.

TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, dự thảo này, nếu được ban hành, sẽ giúp các doanh nghiệp phát hành có thêm 2 năm để xoay xở nguồn tiền đảo nợ, bán tài sản, tái cơ cấu nợ. Theo đó, các doanh nghiệp đến hạn thanh toán trái phiếu trong 2 năm đỉnh nợ (2023-2024), nhưng đang gặp khó khăn về thanh toán có thể đàm phán với nhà đầu tư để gia hạn sang năm 2025-2026. Mặc dù chưa thể giải quyết ngay các khó khăn trên thị trường, song các quy định trên sẽ giúp nhà đầu tư bớt lo lắng, tháo chạy khỏi trái phiếu, cải thiện thanh khoản thị trường.

Dù vậy, đây vẫn chỉ là giải pháp gỡ khó ngắn hạn về thanh khoản. Để thị trường phát triển mạnh mẽ trở lại, vẫn cần thêm các giải pháp giải quyết tận gốc, lấy lại niềm tin cho nhà đầu tư.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Nguyễn Công Niềm, Giám đốc Tài chính F88 cho biết, những năm qua, F88 chủ yếu huy động vốn qua kênh trái phiếu. Tuy nhiên, năm 2022, thị trường trái phiếu đóng băng, khiến doanh nghiệp không thể huy động. Ông Niềm bày tỏ hy vọng năm 2023, thị trường TPDN sẽ được khơi thông trở lại. Mặc dù vậy, đại diện doanh nghiệp này cũng cho biết, doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi cách thức phát hành trái phiếu theo hướng minh bạch hơn để tạo niềm tin cho nhà đầu tư.

Trái phiếu doanh nghiệp là vấn đề cấp bách nhất năm 2023. Theo tôi, Chính phủ cần chỉ đạo giải quyết sớm, dứt điểm những vụ việc vừa qua, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư. Đây cũng là giải pháp quan trọng nhất để lấy lại niềm tin của thị trường và nhà đầu tư, cũng là cách để giải quyết vấn đề TPDN đáo hạn 2 năm tới.

Theo chia sẻ của nhiều doanh nghiệp, hiện nay, quá trình phê duyệt hồ sơ phát hành TPDN ra công chúng kéo dài nhiều tháng, khiến doanh nghiệp có nguy cơ bỏ lỡ cơ hội. Các chuyên gia cho rằng, cần phải rút gọn thời gian phê duyệt hồ sơ xuống còn 15-30 ngày để khuyến khích doanh nghiệp tham gia kênh này.

TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định, phát hành trái phiếu ra công chúng là con đường để minh bạch thị trường TPDN Việt Nam. Tuy vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện ngay phát hành TPDN ra công chúng.

“Phát hành TPDN ra công chúng là cần thiết, song cần thêm thời gian để doanh nghiệp chuẩn bị hồ sơ, xếp hạng tín nhiệm, minh bạch thông tin…, cũng như để Ủy ban Chứng khoán cải tiến quy trình, thủ tục. “Hoãn” thực hiện Nghị định 65 là thời gian vàng để các bên hoàn tất công tác chuẩn bị”, TS. Nghĩa nhận định.

Mặc dù gặp khủng hoảng tạm thời do sự chấn chỉnh của cơ quan quản lý, song các chuyên gia phân tích đều nhìn nhận, sự chấn chỉnh này có lợi cho thị trường về dài hạn.

“Những động thái mạnh tay của Chính phủ trong siết lại thị trường TPDN vừa qua về ngắn hạn sẽ ảnh hưởng đến thị trường vốn, nhưng trong trung, dài hạn sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Trong năm 2023, các doanh nghiệp bất động sản sẽ buộc phải định nghĩa lại câu chuyện phát hành, sẽ phải phát hành chuẩn chỉ hơn”, ông Phùng Trung Kiên, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán AIS nhận định.

Về phía Bộ Tài chính, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho hay, Bộ đang lấy ý kiến trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Về lâu dài, để phát triển thị trường TPDN an toàn, bền vững, Bộ sẽ phối hợp với các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, rà soát lại Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp để sửa đổi các quy định về điều kiện phát hành trái phiếu của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu riêng lẻ nhằm tháo gỡ các khó khăn phát sinh hiện nay.

TS. Cấn Văn Lực lưu ý, khi hoàn thiện khung pháp lý với TPDN, cơ quan quản lý cần có thêm giải pháp về phía cầu để tăng dòng tiền mới vào thị trường, cụ thể là cần có cơ chế cởi mở hơn với các nhà đầu tư tổ chức như ngân hàng, quỹ đầu tư, quỹ mở… để các tổ chức mạnh dạn đầu tư hơn vào TPDN.

Giao dịch rút tiền mặt đã giảm từ 12% xuống còn 6,5%

Công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS) cho hay, năm 2022, thanh toán điện tử tiếp tục tăng nhanh số lượng giao dịch và giá trị giao dịch thực hiện qua NAPAS tiếp tục tăng tương ứng là 96,5% và 87,3% so với năm 2021.

Năm 2022 tiếp tục ghi nhận tỷ trọng các giao dịch rút tiền mặt trên tổng giao dịch xử lý qua hệ thống NAPAS giảm từ 12% trong năm 2021, xuống mức 6,56% của năm 2022. Tỷ trọng giao dịch thẻ chip thực hiện qua hệ thống NAPAS tiếp tục tăng từ 26% năm 2021 lên đến hơn 60% năm 2022.

Đặc biệt, dịch vụ chuyển nhanh NAPAS 247 bằng mã VietQR cũng có sự tăng trưởng ấn tượng sau hơn 1 năm ra mắt, thanh toán bằng mã VietQR đã trở thành một trong các hình thức thanh toán phổ biến và được thị trường đón nhận vì sự thuận thiện, đơn giản và chi phí thấp. 

Phó Thống đốc Phạm Tiến Dũng nhấn mạnh, việc tiếp tục giảm tỷ trọng giao dịch rút tiền mặt so với tổng các giao dịch và tăng về tỷ trọng xử lý thẻ chip VCCS – tiêu chuẩn thẻ chip nội địa được xử lý qua hệ thống NAPAS.

Phó Thống đốc yêu cầu Napas thời gian tới tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu và phát triển sản phẩm dịch vụ mới, đầu tư phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công việc. Phối hợp các đơn vị chức năng của Bộ Công An và ngân hàng Nhà nước triển khai công tác đảm bảo an ninh, an toàn của hệ thống. Song song với đó quan tâm tới công tác phòng chống rửa tiền, quản lý rủi ro giao dịch gian lận giả mạo, giảm thiểu thiệt hại cho người dân trước các đối tượng lừa đảo…

Lợi nhuận ngân hàng tăng trưởng ra sao trong năm 2023?

Tín dụng toàn ngành dự kiến tăng trưởng ở mức 12%, NIM suy giảm Động lực tăng trưởng thu nhập ngoài lãi hạ nhiệt, dẫn đến tổng thu nhập hoạt động tăng trưởng ở mức thấp so với 2022.

Trong bối cảnh thị trường bất động sản tiếp tục trầm lắng trong năm 2023, VNDirect Research kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận của ngành ngân hàng sẽ đạt 10-11% trong năm 2023-2024 (so với mức 32% năm 2022).

Nhận định được đưa ra từ các chuyên gia của VNDirect, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ tiếp tục chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm 2023-2024 trong bối cảnh kinh tế vĩ mô vẫn nhiều biến động, thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương Mỹ còn gây áp lực lên tỷ giá và lãi suất, và áp lực lạm phát.

Lợi nhuận ngân hàng tăng trưởng ra sao trong năm 2023?

Cùng với tình trạng căng thẳng thanh khoản, ngành ngân hàng sẽ phải đối mặt với chi phí vốn tăng trong năm tới. Lãi suất liên ngân hàng đã tăng mạnh trong những tháng cuối năm do NHNN hút tiền đồng từ hệ thống để cân đối tỷ giá; doanh nghiệp mua lại trái phiếu trước hạn; và sự kiện xoay quanh SCB.

Tuy đã hạ nhiệt, dự báo lãi suất liên ngân hàng sẽ tiếp tục ở quanh vùng 5-6% cho kỳ hạn qua đêm. Liên quan đến lãi suất huy động, sau khi NHNN tăng lãi suất điều hành 2 điểm phần trăm trong 2 quý cuối năm 2022, các ngân hàng thương mại đã nhanh chóng nâng mạnh lãi suất huy động ở mọi kỳ hạn.

Sang 2023, khi chi phí vốn của ngành ngân hàng sẽ tăng mạnh khiến cho biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng cũng sẽ thu hẹp. VNDirect cho rằng, những ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán lẻ và tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) cao sẽ có khả năng chống chọi với việc NIM bị thu hẹp. Hiện Techcombank, MBB và VCB là những ngân hàng có tỷ lệ CASA tốt nhất hệ thống.

Trong khi, VIB và ACB là hai ngân hàng có tỷ trọng bán lẻ cao nhất, lần lượt ở mức 87% và 64%. Vietinbank, VPBank, TPBank và MBB cũng là những cái tên đáng chú ý khi đã thành công trong việc tăng tỷ trọng cho vay bán lẻ trong năm nay.

Báo cáo triển vọng thị trường năm 2023 mới đây, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cũng cho rằng, năm 2023 chi phí vốn tăng, nhưng tỷ suất tài sản sinh lãi có thể tăng chậm hơn, cùng với việc cho vay có độ trễ tái định giá 3-6 tháng dẫn đến NIM có thể thu hẹp nhẹ trong 1-2 quý tới.

Nửa đầu năm 2023, NIM khả năng cao vẫn suy giảm do những yếu tố trên nhưng từ giữa năm, có thể đi ngang hoặc tăng nhẹ với kỳ vọng sức ép vĩ mô thế giới sẽ giảm dần, làm giảm áp lực đối với lãi suất huy động.

Nhóm ngân hàng quốc doanh sẽ chứng kiến mức độ suy giảm NIM nhiều hơn so với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần bởi nhiệm vụ hỗ trợ nền kinh tế trong những giai đoạn khó khăn.

Không chỉ áp lực NIM giảm, tăng trưởng tín dụng trong 2023 cũng được giới phân tích dự báo sẽ giảm tốc trong môi trường vĩ mô kém thuận lợi.

VDSC ước tính tăng trưởng tín dụng toàn ngành vào khoảng 11-12% năm 2023, thấp hơn mức mục tiêu 15,5-16% năm 2022 do nhu cầu tín dụng giảm trong bối cảnh lãi suất tăng cùng với các động lực tăng trưởng kinh tế có xu hướng suy giảm và quan điểm hạn chế tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro của nhà điều hành.

Việc phân bổ hạn mức tín dụng theo mục tiêu sẽ tạo lợi thế cho một số ngân hàng, trong khi hạn chế cơ hội tăng trưởng của các ngân hàng khác. VDSC ước tính tăng trưởng tín dụng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng với danh mục khác nhau.

Tín dụng hệ thống ngân hàng vừa được Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng thông tin đã tăng 14,5% trong 2022, cao hơn mức cùng kỳ năm ngoái (13,6%). Tuy nhiên, theo VNDirect, tín dụng chỉ tăng thêm khoảng 5% từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 12, chậm lại rõ rệt khi ổn định kinh tế vĩ mô vẫn đang là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ.

VNDirect nhận định, tăng trưởng tín dụng sẽ chậm lại và đạt khoảng 12% năm 2023 do thị trường bất động sản kém khả quan, tăng trưởng xuất khẩu giảm tốc và lãi suất cao.

Các chủ đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp trầm lắng và lãi suất tăng cao làm ảnh hưởng lên nhu cầu vay mua nhà.

Xuất khẩu sẽ giảm tốc và đạt 9,5% trong năm 2023 (từ mức 14% trong năm 2022). Hơn nữa, các doanh nghiệp sẽ tạm thời ngưng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh lãi suất tăng cao và nhu cầu tiêu dùng suy yếu. Lạm phát dự kiến vẫn sẽ ở mức cao.

Mặc dù lạm phát toàn cầu đã có dấu hiệu đạt đỉnh nhưng lạm phát tại Việt Nam vẫn có thể duy trì mức cao do mức tăng tiền lương 20,8%, có hiệu lực từ tháng 7/2023 và sự tăng giá ở các dịch vụ như y tế, vận tải công cộng,…căng thẳng thanh khoản cũng là một nguyên nhân làm chậm lại đà tăng trưởng tín dụng.

Trước đó, vào cuối quý III/2022, các ngân hàng đều ghi nhận chỉ số LDR tăng mạnh, một số ngân hàng đã gần chạm ngưỡng quy định (85%).

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản được giới phân tích tài chính nhận định, không chỉ ảnh hưởng triển vọng tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu.

VDSC cho rằng, năm 2023, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục hành trình vượt bão trong chu kỳ bất động sản đi xuống cùng với triển vọng kém tích cực của xuất nhập khẩu, nhưng khả năng chống chịu của từng ngân hàng sẽ tùy thuộc vào chất lượng tài sản và mức độ thận trọng của ngân hàng trong những năm qua.

Tuy nhiên, quy mô nợ xấu và chi phí tín dụng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng, dựa trên mức độ thận trọng của ngân hàng trong việc trích lập dự phòng và khả năng hồi phục tài chính của của khách hàng.

Trong khi đó, VNDirect nhận định, bên cạnh căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến việc các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về thanh khoản, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Khi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao, do USD và lãi suất tiền đồng tăng, ảnh hưởng lên khả năng trả nợ. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023.

Tuy nhiên, với các ngân hàng đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và không liên quan nhiều đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác.

Năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Vì thế, NHNN cho biết, tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…

Đáng chú ý, Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Một trong những thách thức lớn nhất là lạm phát cao, các Ngân hàng trung ương lớn trên giới như Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất chứ không chỉ dừng lại ở đó, do đó, áp lực tăng lãi suất rất cao.

Với gành ngân hàng trong nước, các ngân hàng thương mại sẵn sàng tiếp tục hy sinh lợi nhuận để giảm lãi suất, chia sẻ với doanh nghiệp, với nền kinh tế trong năm 2023.

Thống đốc: Tín dụng năm 2022 ước tăng 14,5%, ưu tiên nhất năm 2023 là đảm bảo thanh khoản

Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương sáng 3/1/2023, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, năm 2022 là một năm vô cùng thách thức đối với việc điều hành chính sách tiền tệ khi cùng một lúc chịu áp lực bởi xu hướng tăng lạm phát, lãi suất, đồng đô la Mỹ trên phạm vi toàn cầu và những khó khăn của thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp ở trong nước.

Thống đốc: Tín dụng năm 2022 ước tăng 14,5%, ưu tiên nhất năm 2023 là đảm bảo thanh khoản

NHNN đã phải đứng trước ba bài toán khó. Thứ nhất, làm thế nào để điều hành tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế mà vẫn phải đảm bảo an toàn hệ thống trong khi một số chỉ tiêu tiền tệ như tỷ lệ tín dụng/huy động vốn và dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã và đang ở ngưỡng cảnh báo.

Thứ hai, làm thế nào ổn định được thị trường ngoại hối khi nền kinh tế của ta có độ mở cửa lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng Đô la tăng giá mạnh, Việt Nam đang trong giai đoạn giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ của phía Hoa kỳ…

Thứ ba, làm thế nào ổn định được an toàn hệ thống khi thanh khoản hệ thống và niềm tin của thị trường chịu tác động mạnh bởi sự cố SCB chưa từng có tiền lệ.

Với sự bình tĩnh, chủ động trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và việc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, chính sách của NHNN, kết thúc năm 2023, chính sách tiền tệ đã có những đóng góp quan trọng, góp phần củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô. Đó là: góp phần kiểm soát lạm phát ở mức thấp (bình quân 3,15%), tăng trưởng kinh tế phục hồi ở mức cao (8,02%); tín dụng ước tăng khoảng 14,5%; thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định (VND mất giá 3,5%, mặt bằng lãi suất tăng khoảng gần 1%/năm, là mức biến động thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới và khu vực), thanh khoản hệ thống cơ bản được đảm bảo…

Đặc biệt, tháng 11 vừa qua, Bộ tài chính Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam ra khỏi Danh sách giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ, đồng thời, đánh giá cao công tác điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của NHNN Việt Nam.

Thống đốc khẳng định, năm 2023 tình hình kinh tế thế giới và trong nước vẫn còn nhiều khó khăn. Người đứng đầu Quỹ tiền tệ quốc tế vừa mới nhận định 1/3 nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng bởi suy thoái, và cảnh báo thế giới sẽ đối mặt với một năm 2023 khó khăn hơn.

Trong nước, lạm phát cơ bản đang có xu hướng tăng cao trong khi vẫn cần thực hiện các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế, những khó khăn trên thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp chưa được giải quyết căn bản.

Bởi vậy, lãnh đạo NHNN cho hay, năm 2023, NHNN sẽ tập trung vào một số mục tiêu lớn.

Mục tiêu đầu tiên là tập trung các giải pháp, ưu tiên cao nhất đảm bảo thanh khoản, giữ vững ổn định, an toàn hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, tiếp tục điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Thứ ba, điều hành tín dụng phù hợp, góp phần duy trì đà phục hồi của nền kinh tế; hướng dòng vốn tín dụng tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Thứ tư, phối hợp các Bộ, ngành để tham mưu các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các thị trường.

Gỡ thanh khoản nền kinh tế cần thúc đẩy đầu tư công, điều chỉnh giá bất động sản…

Thống đốc cũng khẳng định, chính sách tiền tệ với bản chất là ngắn hạn nên cần hạn chế sử dụng để giải quyết các vấn đề mang tính trung dài hạn. Để tháo gỡ khó khăn, ách tắc thanh khoản trong nền kinh tế, cần thúc đẩy giải ngân đầu tư công, thực hiện giảm, giãn thuế, điều chỉnh giá bất động sản…để khơi thông dòng tiền giữa các khu vực trong nền kinh tế.

“Nếu quá phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng có thể gây hệ lụy và rủi ro trong tương lai vì các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng của Việt Nam đã và đang ở ngưỡng cảnh báo”, Thống đốc nhấn mạnh.

Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, lãnh đạo NHNN cho biết, ngành ngân hàng tập trung thực hiện các giải pháp cải cách, đơn giản thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp cận vốn.

Tuy nhiên, đối với nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn, cần các giải pháp chính sách hỗ trợ khác từ phía nhà nước như bảo lãnh tín dụng, các các chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được thực thi hiệu quả…

Lãi suất – thách thức lớn nhất của chính sách tiền tệ năm 2023

Năm 2022 đã khép lại với nhiều biến động lớn trong lĩnh vực ngân hàng. Năm 2023, theo dự báo của TS. Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN), kinh tế toàn cầu có khả năng đi vào suy thoái lớn. Tuy vậy, dự báo Fed còn tiếp tục xu hướng tăng lãi suất trong năm 2023 và duy trì lãi suất ở mức cao cho đến cuối 2024.

“Dù mức độ và tác động do Fed tăng lãi suất sẽ không còn dữ dội, nhanh, mạnh như năm 2022 nhưng mức độ tác động đến nền kinh tế còn dai dẳng trong năm 2023. Ngoài ra, trong nước, lạm phát lõi có dấu hiệu đáng quan ngại, mức tăng liên tục, mạnh khiến điều hành chính  sách tiền tệ đối với 2023 không thể chủ quan”, TS. Quang nhận định.

Trong khi đó, nhận định về thách thức chính sách điều hành năm 2023, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn – Chính sách Tiền tệ Quốc gia cũng cho rằng, với khả năng FED tiếp tục tăng lãi suất, áp lực lãi suất và tỷ giá trong nước vẫn còn khá lớn. Trong khi đó, dư địa điều hành chính sách tiền tệ giảm dần do các công cụ đã được NHNN sử dụng gần hết, đặc biệt lãi suất điều hành đã tăng 2 lần với mức độ lớn.

Ngoài ra, thanh khoản ngân hàng không còn dồi dào, hệ số an toàn vốn (CAR) mỏng và nợ xấu có nguy cơ tăng cũng là những thách thức lớn trong điều hành chính sách tiền tệ năm nay, theo nhận định của TS. Cấn Văn Lực.

Trao đổi với Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa lại cho rằng, áp lực lạm phát, tỷ giá toàn cầu năm 2023 sẽ giảm dần. Kinh tế Mỹ và Trung Quốc đang có dấu hiệu phục hồi mạnh hơn dự báo. Tuy  nhiên, thách thức lớn nhất với nền kinh tế nước ta chính là các yếu tố nội tại. 

Riêng với chính sách tiền tệ, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, thách thức lớn nhất năm tới chính là vấn đề lãi suất.

Mặc dù NHNN cho rằng, mặt bằng lãi suất ở Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều nước trong khu vực, song TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, lãi suất thực ở Việt Nam hiện nay đang quá cao.

Cụ thể, lãi suất tiền gửi trung bình kỳ hạn 1 năm hiện nay khoảng 9,4%, nếu trừ đi lạm phát bình quân (3,15%) thì đang ở thực dương 6,25%. Còn lãi suất cho vay 1 năm hiện nay trung bình 12,5%, trừ đi lạm phát thì đang trên 9,3%, nếu cộng với biên độ biến động tỷ giá USD 3,81% thì đang dương 13%. Lãi suất thực (cho vay) trên 13%, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, là mức lãi suất cho vay “cao nhất nhì thế giới”, khiến doanh nghiệp khó cạnh tranh.

Với mặt bằng lãi suất này, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, doanh nghiệp nội địa sẽ đuối sức, nhường chỗ cho doanh nghiệp nước ngoài – vốn không phải chịu lãi suất cao của hệ thống ngân hàng Việt Nam.  

Chính vì vậy, theo chuyên gia này, trọng tâm chính sách của NHNN và Chính phủ năm 2023 cần phải đi theo hướng giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế. Muốn giảm lãi suất, đồng nghĩa cung tiền phải tăng lên.  

Liên quan đến câu chuyện lãi suất và tăng cung tiền, TS. Phạm Chí Quang cho biết, thời gian qua, Việt Nam liên tục nhận được nhiều cảnh báo từ các Tổ chức quốc tế như World Bank, IMF về mức độ rủi ro an toàn hoạt động ngân hàng do tỷ lệ đòn bẩy tài chính quốc gia (tổng dự nợ tín dụng trong GDP) thuộc nhóm cao nhất trong các nước có thu nhập trung bình thấp. Tỉ lệ này ở Việt Nam là 124%. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng trên 12%/năm thời gian tới, tỷ lệ này sẽ còn gia tăng.

Trong bối cảnh năng lực tài chính của Việt Nam chưa đáp ứng được chuẩn mực quốc tế (nhiều ngân hàng chưa đáp ứng đầy đủ quy định về Basel II mà vẫn còn trong lộ trình triển khai) thì tỷ lệ đòn bẩy này tăng dẫn tới nhiều rủi ro.

“Xu hướng lãi suất quốc tế còn tăng, Việt Nam khó đi ngược dòng chảy chung của thế giới. Việc giảm lãi suất thời gian tới là nỗ lực lớn để duy trì ổn định mặt bằng lãi suất thị trường… Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt của ngành ngân hàng”, TS. Phạm Chí Quang nhận định.

]]>
2023 là năm bản lề, cơ hội cho những nhà kinh doanh bất động sản thực thụ https://doanhnhandautu.com/2023-la-nam-ban-le-co-hoi-cho-nhung-nha-kinh-doanh-bat-dong-san-thuc-thu/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:36 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4107 Nhận diện rõ thách thức và chuẩn bị sẵn tinh thần, giải pháp cụ thể để vượt qua, thì nhà đầu tư, doanh nghiệp địa ốc có nội lực tốt sẽ luôn tìm thấy nhiều cơ hội, chuyên gia kinh tế TS. Đinh Thế Hiển chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư. ]]>
Nhận diện rõ thách thức và chuẩn bị sẵn tinh thần, giải pháp cụ thể để vượt qua, thì nhà đầu tư, doanh nghiệp địa ốc có nội lực tốt sẽ luôn tìm thấy nhiều cơ hội, chuyên gia kinh tế TS. Đinh Thế Hiển chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư.

Nhiều dự báo thị trường bất động sản năm 2023 vẫn khó, quan điểm của ông như thế nào?

Nói khó khăn là nói theo quan điểm kiểu cũ. Đó là quan điểm của những người đầu tư đất theo kiểu “cứ mua thổ là lời”, hay công ty bất động sản chỉ cần có vốn, có dự án, đền bù xong, mở bán, lúc này chỉ quan trọng lời ít lời nhiều thôi. Những người nghĩ và hành động theo kiểu này thì mới thấy khó khăn. 

Nhìn ở góc độ như công ty sản xuất, nghĩa là phải đánh giá được thị trường, đối thủ cạnh tranh, lựa chọn cách thức sản xuất, tổ chức bán hàng… thì những tác động mà ngành bất động sản hiện đang đối mặt cũng giống như mọi ngành kinh doanh khác. Đây có thể không gọi là khó khăn, mà là bước vào giai đoạn mới, một giai đoạn kinh doanh có tính sáng tạo, bền vững hơn. 

Như vậy, với những nhà đầu tư và doanh nghiệp nào hiểu rằng, bất động sản cũng như mọi ngành khác, cần nghiên cứu kỹ lưỡng, tổ chức vận hành, có năng lực quản trị, thì năm 2023 sẽ là năm nền tảng của thị trường bất động sản, sẽ thanh lọc, giảm bớt những đối tượng không chuyên, ỷ vào vốn mạnh. 

Hay nói cách khác, thị trường sẽ dành cho những nhà đầu tư, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đúng tính chất của nhà kinh doanh thực sự, chứ không phải là “buôn đất, lướt sóng”. 

Nhà kinh doanh bất động sản thực thụ sẽ đánh giá được được phân khúc sản phẩm nào có khách hàng tiềm năng. Chẳng hạn, như trong phân khúc bất động sản nghỉ dưỡng, có khách hàng sẽ nhìn thấy cơ hội từ việc Trung Quốc mở cửa, du lịch sẽ bứt phá trở lại. Nhưng bản thân nhà đầu tư hay doanh nghiệp cần phải nắm rõ lợi thế cạnh tranh của mình là gì, trong phân khúc lựa chọn đầu tư (có thể là lợi thế nguồn vốn, khả năng tổ chức kinh doanh, mạng lưới network…).Tức là cần kết hợp chặt chẽ giữa tiềm năng thị trường và ưu thế trong kinh doanh của doanh nghiệp, thì mới nên tham gia.

Và kế hoạch kinh doanh cần rõ ràng, đồng nhịp với vấn đề về vốn, về nguồn lực của mình, tránh rủi ro “lúc nào cũng thiếu vốn” trong quá trình thực hiện. Thực tế, thiếu vốn là vấn đề của mọi ngành nghề kinh doanh, không chỉ ngành bất động sản. 

Vì sao năm 2023 là năm nền tảng cho các doanh nghiệp bất động sản?

Trong nhiều năm qua, cách phát triển của bất động sản Việt Nam là ai cũng có thể tham gia, chỉ cần có tiền; là ngành mà hầu như chỉ cần một ông chủ quyết định là thành công, các bộ phận bên dưới mang tính “tương đối”; là ngành mà có dự án triển khai bị chậm hơn so với tiến độ rất nhiều, nhưng lại có lời hơn so với các dự án “đúng hẹn” chỉ vì giá đất tăng hàng năm.  

Đây là cách thức kinhdoanh kiểu cũ – không đòi hỏi năng lực quản trị vận hành, năng lực phân tích nghiên cứu thị trường, khả năng thực thi…mà chỉ cần quyết đoán, thậm chí có liều lĩnh của nhà đầu tư, doanh nghiệp mà thôi. 

Nhưng trong thị trường này, những đơn vị làm ăn bài bản, có thương hiệu, chưa chắc kinh doanh có lời bằng những doanh nghiệp giỏi về quảng bá, quảng cáo với mục tiêu đẩy giá đất, lướt sóng đầu cơ bất động sản… Những người chọn lựa kỹ, cân nhắc kỹ tiềm lực tài chính và không liều mạng sử dụng đòn bẩy lớn, không làm trái quy định, pháp lý, làm từ từ, thì lại phát triển chậm hơn. 

Nên, chưa chắc toàn bộ doanh nghiệp thành công trên thị trường bất động sản hiện nay đều có năng lực quản trị. 

Ngành nào cũng sẽ có cơ hội và khó khăn, nếu không, chúng ta chỉ là những người đi gửi tiền và nên vui vẻ gửi tiền với lãi suất 6%. Còn đi kinh doanh, xác định thật rõ và không được đòi hỏi ngành mình chỉ có thuận lợi, phải nhận diện rõ các khó khăn, thách thức để có tinh thần và giải pháp để vượt qua – đó mới là cơ hội cho những nhà đầu tư, doanh nghiệp có nội lực tốt.

Gọi năm 2023 là nền tảng, bản lề là lẽ vậy.

Như vậy, có thể xem đây là bước chuyển tiếp của ngành bất động sản từ kiểu cũ, sang kiểu mới, nhưng trong quá trình chuyển tiếp này có ảnh hưởng đến ngành nghề khác không, thưa ông? Bởi bất động sản là lĩnh vực phức tạp, có liên quan mật thiết đến hơn 40 ngành nghề khác…

Không có ngành nào không liên đới các ngành nghề kinh doanh khác, bất động sản cũng vậy.

Khi bất động sản phát triển đúng theo hướng là bất động sản khai thác, chẳng hạn phân khúc nhà ở, nếu phát triển dự án phục vụ nhu cầu ở thực hoặc cho thuê, thì tức là tạo ra nơi an cư và dịch vụ nhà ở, hình thành phát triển nên các dịch vụ, tiện ích, giao thương xung quanh… thì đó là đúng đắn, tạo ra giá trị. Hoặc xây dựng dự án nghỉ dưỡng mà có du khách tới nhiều, không chỉ tác động tới ngành xây dựng, mà còn nhiều lĩnh vực khác tại địa phương, đó là tạo ra giá trị. 

Năm 2023 sẽ hạn chế rất nhiều người, nhiều doanh nghiệp đầu cơ bất động sản, nhưng sẽ là cơ hội cho những doanh nghiệp biết cách “khai thác”. Như nghỉ dưỡng, chủ đầu tư biết chắc chắn có thể cho thuê được mới dám làm, và như vậy, họ tạo ra một bất động sản nghỉ dưỡng khai thác thực sự. Hay xây dựng căn hộ thì biết có nhu cầu thực, có thể không hoàn toàn để ở mà mua để cho thuê được, thì cũng tạo ra bất động sản khai thác, và từ đó tạo thêm việc làm thích hợp.

Với một bất động sản khai thác đúng nghĩa, người bỏ tiền vào sẽ giảm áp lực “còng lưng” trả nợ, vì đã có dòng tiền khai thác từ chính bất động sản đó. Tất nhiên không thể kỳ vọng ngay trong năm 2023 có bứt phá, nhưng đây là một tiến trình cho phép bất động sản đồng hành, là lực đẩy cho nền kinh tế. 

Vậy có thể nhìn thấy điểm sáng tích cực nào cho bất động sản năm 2023, thưa ông?

Bất động sản là ngành đặc biệt khi quá trình đầu tư là quá trình tạo ra sản phẩm không kịp điều tiết, trong khi các ngành khác, quá trình đầu tư tách biệt với quá trình sản xuất.

Chẳng hạn nhà máy sản xuất, chế biến thuỷ sản, hay đồ gỗ gia dụng, trong quá trình đầu tư xây dựng nhà máy và khi đi vào vận hành, sản xuất, nếu thị trường chưa thuận lợi, họ có thể chủ động giảm sản xuất giúp dòng vốn không bị dồn, không bị ứ đọng, nên khi thị trường bất lợi thì doanh nghiệp có thể kịp thời điều tiết để giảm đi, chỉ gánh trong phần đầu tư nhà máy. 

Một nhà máy sản xuất như thuỷ sản, đầu tư khoảng 100 tỷ đồng, nhưng mỗi năm có thể tạo ra doanh thu cả ngàn tỷ đồng, khi cảm thấy thị trường lớn bị giảm sức mua như Mỹ, EU, thì họ chủ động giảm sản xuất, nên không thua lỗ nhiều. 

Nhưng với bất động sản, quá trình đầu tư gắn liền với tạo ra sản phẩm, quy mô rất lớn, thường vốn đầu tư cả ngàn tỷ đồng. Tiến độ dự án, từ khi xây dựng nếu bị đình trệ rất nguy hiểm, nếu gặp thị trường suy thoái thì không thể một sớm một chiều “thắng lại và chuyển dịch”, đó là lý do vì sao trong tất cả cuộc khủng hoảng ở các cấp độ, đều liên quan đến bất động sản chứ không phải khủng hoảng ngành nào khác. 

Doanh nghiệp bất động sản có tỷ suất sinh lời cao hơn các ngành nghề khác trong nhiều năm, nên bây giờ, cần có 1-2 năm “chờ đợi”, không thể nào cầu mong ngay năm 2023 có thể giải quyết được khó khăn. Ai càng mong đợi, cứ tư duy và hành động theo kiểu cũ thì càng thiệt hại, chỉ có cách nhận diện, chịu đựng và khắc phục. 

Cũng phải nhắc đến những động lực tăng trưởng của ngành vẫn đang lớn, như phát triển các khu dân sinh, thương mại, công nghiệp vì Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển và hạ tầng còn mở ra những vùng mới. Quyết tâm của Chính Phủ thể hiện qua việc đẩy mạnh đầu tư công, thông qua phát triển hạ tầng giao thông, với 12 dự án cao tốc, kết nối vùng miền và tạo ra các khu công nghiệp, khu dân sinh mới – giúp cho thị trường bất động sản không bị trì trệ lâu…

Các nút thắt về trái phiếu doanh nghiệp, room tín dụng… đang có hướng ra. 

Tổng kết lại là, thị trường bất động sản “có cửa mới”, nhưng không thể đòi hỏi bứt phá ngay và luôn trong năm 2023. 

]]>
Cảnh báo nguy cơ tín dụng tuồn vào đảo nợ trái phiếu https://doanhnhandautu.com/canh-bao-nguy-co-tin-dung-tuon-vao-dao-no-trai-phieu/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:34 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4132 Khẳng định muốn cho vay bất động sản để dòng vốn luân chuyển, thu hồi được nợ, nhưng các ngân hàng cũng cảnh báo nguy cơ lách luật để tuồn vốn vào bất động sản và hiện tượng vay vốn để đảo nợ trái phiếu.]]>
Khẳng định muốn cho vay bất động sản để dòng vốn luân chuyển, thu hồi được nợ, nhưng các ngân hàng cũng cảnh báo nguy cơ lách luật để tuồn vốn vào bất động sản và hiện tượng vay vốn để đảo nợ trái phiếu.
Cảnh báo nguy cơ tín dụng tuồn vào đảo nợ trái phiếu

Doanh nghiệp ngóng vốn, ngân hàng thận trọng

Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM cho hay, vướng mắc phổ biến của nhiều doanh nghiệp bất động sản hiện nay là thiếu tiền, giảm thanh khoản do không huy động được nguồn vốn của khách hàng, cũng như tiếp cận tín dụng. “Không chỉ doanh nghiệp, mà người mua nhà, nhà đầu tư cũng khó tiếp cận tín dụng. Nhiều trường hợp trớ trêu là ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng, nhưng dừng giải ngân, khiến cả doanh nghiệp và khách hàng đều gặp khó khăn lớn”, ông Châu cho biết.

Dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nới room tín dụng từ đầu tháng 12/2022, nhưng theo ông Châu, việc nới room diễn ra chậm, nên vốn chưa kịp bơm vào nền kinh tế. Tín dụng cả năm 2022 mới tăng 14,5%, chưa sử dụng hết hạn mức.

Thực tế, việc khan vốn của doanh nghiệp bất động sản năm qua không hoàn toàn do lỗi của ngành ngân hàng, mà chủ yếu do thị trường trái phiếu, chứng khoán gặp khó khăn. Theo các chuyên gia kinh tế, những năm trước, thị trường bất động sản dựa 50% vào vốn ngân hàng, song năm 2022 lên tới 70%, gây rủi ro lớn cho hệ thống.

TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế cho rằng, giải quyết bài toán vốn cho bất động sản ở Việt Nam là câu chuyện dài. Theo đó, bên cạnh phát triển các thị trường vốn, thị trường tín dụng, cần phát triển các định chế tài chính khác nhau như các loại hình quỹ phát triển bất động sản. Trước mắt, cần phân loại dự án bất động sản để ngân hàng yên tâm rót vốn, ưu tiên các dự án phục vụ nhu cầu thật. Hai là cho các doanh nghiệp tiếp tục phát hành trái phiếu, có thể là đảo nợ để dự án được triển khai, khơi thông dòng tiền.

Lý giải chuyện khát vốn của doanh nghiệp bất động sản, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam khẳng định, tất cả dự án bất động sản đầy đủ pháp lý, các dự án liên quan đến nhà ở tiêu dùng phục vụ người dân, kể cả tín chấp tiền lương, vẫn được ngân hàng cho vay. Những dự án mà người dân không tiếp cận được vốn tín dụng chủ yếu là do tính pháp lý của dự án hoặc năng lực chủ đầu tư không đảm bảo.

“Bất động sản là lĩnh vực rủi ro, nên ngân hàng phải xem xét rất thận trọng khi cho vay. Dự án đảm bảo tính pháp lý, giá cả phù hợp thì không khó tiếp cận tín dụng. Người dân có nhu cầu tiếp cận vốn mua nhà ở gần như đều tiếp cận được. Với những dự án vừa muốn tiếp cận vốn, vừa vướng thủ tục pháp lý, thì ngân hàng không khuyến khích”, ông Hùng khẳng định.

Ngân hàng muốn cho vay bất động sản, nhưng vẫn phải dè chừng rủi ro

Các chuyên gia cho rằng, qua cơn khủng hoảng thanh khoản vừa qua, doanh nghiệp bất động sản cần nghiêm túc nhìn nhận lại. Thời gian qua, giá bất động sản bị đẩy lên quá cao, tỷ suất sinh lời quá lớn. Chỉ khi doanh nghiệp bất động sản chấp nhận giảm bớt lợi nhuận, người dân chấp nhận được mức giá, thì dòng vốn mới luân chuyển. 

Thực tế, bất động sản là lĩnh vực gắn bó mật thiết với ngân hàng, chiếm hơn 20% tổng dư nợ tín dụng và chiếm 70-80% tài sản bảo đảm của các ngân hàng. Các tổ chức tín dụng rất muốn cho vay rồi cho vay tiếp và muốn thị trường bất động sản khơi thông để dòng vốn luân chuyển, thu hồi được nợ.

“Tuy vậy, nếu không cẩn thận, các tổ chức tín dụng lại bơm vốn để bù đắp phần đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp. Điều đó cực kỳ nguy hiểm trong kiểm soát tài sản”, ông Nguyễn Quốc Hùng cảnh báo.

Theo ông Phạm Đức Ấn, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Agribank, hiện có xu hướng cá nhân, nhóm cá nhân phối hợp hình thành nhóm công ty có mối liên hệ rất mật thiết với nhau, nhưng thuê hoặc ủy quyền người khác đứng tên để lách quy định về người có liên quan để vay vốn ngân hàng cho hoạt động kinh doanh thông thường, nhưng thực chất là đầu tư kinh doanh mạo hiểm, kinh doanh bất động sản. Vì vậy, việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay của ngân hàng thương mại rất khó khăn và không khả thi, tiềm ẩn rủi ro cao.

Các ngân hàng và chuyên gia đều cho rằng, cần sớm tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, song phải bằng các giải pháp đồng bộ như gỡ vướng về pháp lý, về thị trường vốn, chứ không chỉ gỡ khó về tín dụng. Riêng về vốn cho bất động sản, việc điều chỉnh hành lang pháp lý và vực dậy niềm tin thị trường để doanh nghiệp có thể khởi động lại kênh phát hành trái phiếu rất quan trọng.

]]>
PDR tiếp tục chi trả 900 tỷ đồng trái phiếu trước hạn https://doanhnhandautu.com/pdr-tiep-tuc-chi-tra-900-ty-dong-trai-phieu-truoc-han/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:21 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4275 Năm lô trái phiếu được tất toán đợt này bao gồm: Lần 1-2021, Lần 3-2021, Lần 6-2021, Lần 7-2021 và Lần 1-2022, tổng giá trị gầ 900 tỷ đồng. ]]>
Năm lô trái phiếu được tất toán đợt này bao gồm: Lần 1-2021, Lần 3-2021, Lần 6-2021, Lần 7-2021 và Lần 1-2022, tổng giá trị gầ 900 tỷ đồng.

Các lô trái phiếu trên ban đầu được đảm bảo bởi cổ phiếu PDR của bên liên quan.

Trước sự biến động mạnh của thị trường chứng khoán vào tháng 11/2022, Phát Đạt đã thu xếp bổ sung thêm tài sản đảm bảo cho các lô trái phiếu này, là quyền sở hữu và quyền khai thác tài sản thuộc dự án Chung cư 239 Cách Mạng Tháng Tám, phường 4, quận 3 (diện tích: 3.504,1 m2). Dự án thuộc quyền sở hữu của bên thứ ba là Công ty cổ phần Đầu tư thương mại – dịch vụ AKYN, bên liên quan của Chủ tịch Nguyễn Văn Đạt. Đây là dự án sở hữu vị trí đắc địa, hiếm hoi ngay mặt tiền đường Cách Mạng Tháng Tám, trung tâm quận 3, TP.HCM với tiềm năng khai thác và phát triển rất lớn.

Phát Đạt tất toán trước hạn các lô trái phiếu này ngoài việc đảm bảo nghĩa vụ trả nợ với các nhà đầu tư trái phiếu còn là động thái để chủ đầu tư tiếp tục phát triển dự án Chung cư 239 CMT8. 

PDR tiếp tục chi trả 900 tỷ đồng trái phiếu trước hạn

Trước đó, trong quý IV/2022, Phát Đạt đã chi hơn 1.300 tỷ đồng tất toán nghĩa vụ trái phiếu và các khoản vay ngân hàng, bao gồm TP lần 9-2021, một phần TP lần 7-2021, khoản vay từ VietinBank và Tập đoàn Mirae Asset (Hàn Quốc). Tổng giá trị trả nợ của Phát Đạt trong thời gian gần đây khá lớn trong bối cảnh thị trường vốn kém tích cực hơn thời gian trước, đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngành BĐS.

Ước tính, theo số dư nợ của Phát Đạt trong báo cáo tài chính quý IV/2022, sau đợt tất toán trái phiếu này tổng nợ vay của Phát Đạt còn khoảng 3.500 tỷ đồng (so với khoảng 5.200 tỷ đồng vào cuối quý III/2022), trong đó có khoảng 1.600 tỷ đồng là trái phiếu.

Hiện tại, cổ phiếu PDR đang giao dịch quanh vùng 14.500 đồng/cổ phiếu. Khối lượng giao dịch trung bình (tính từ tháng 11/2022 đến nay) lên đến gần 18 triệu cổ phiếu/phiên, tương đương giá trị giao dịch khoảng 270 tỷ đồng/ngày, so với thanh khoản trước đây trung bình khoảng 3 triệu cổ phiếu/phiên, tương đương giá trị giao dịch khoảng 190 tỷ đồng/ngày. 

]]>
BCG: Danh mục chứng khoán không còn TPB, lãi cả năm hơn 540 tỷ đồng https://doanhnhandautu.com/bcg-danh-muc-chung-khoan-khong-con-tpb-lai-ca-nam-hon-540-ty-dong/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:30 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4978 Cuối năm 2022, TPB không còn nằm trong danh mục chứng khoán của BCG, có giá trị gốc hồi đầu năm là 990 tỷ đồng. ]]>
Cuối năm 2022, TPB không còn nằm trong danh mục chứng khoán của BCG, có giá trị gốc hồi đầu năm là 990 tỷ đồng.

Bối cảnh quý IV/2022 có nhiều diễn biến tác động đến tình hình kinh doanh chung của nhiều doanh nghiệp, như lãi suất tăng mạnh, sức ép từ đáo hạn trái phiếu, thị trường bất động sản gặp khó trong đó có nhiều doanh nghiệp không thể ra hàng, mảng năng lượng tái tạo có nhiều biến động về chính sách.

Đặt trong bối cảnh đó, CTCP Tập đoàn Bamboo Capital (BCG) cũng chịu những tác động tương tự. Báo cáo tài chính quý 4/2022 cho biết, doanh thu thuần hơn 1.221 tỷ đồng, nhưng biên lợi nhuận gộp lại có sự suy giảm mạnh về 10,77%  (cùng kỳ hơn 75%). 

Đáng chú ý hai khoản mục có biến động mạnh trong kỳ là doanh thu tài chính ghi nhận 385 tỷ đồng, giảm 43,5% và chi phí tài chính 640 tỷ đồng, tăng 57,6%. Trong đó chi phí lãi vay, lãi trái phiếu hơn 385,6 tỷ đồng, tăng 27,67%; lỗ đầu tư cổ phiếu, trái phiếu tăng mạnh lên 99 tỷ đồng (cùng kỳ chưa đến 5 tỷ đồng), và lỗ chênh lệch tỷ giá đã thực hiện 55 tỷ đồng; và chi phí phải trả theo hợp đồng hợp tác đầu tư cũng tăng mạnh lên 108,7 tỷ đồng, gấp 3,75 lần. Đây là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh BCG ghi nhận âm hơn 331 tỷ đồng. 

Các chi phí trong kỳ của BCG đều tăng, như chi phí bán hàng 63,5 tỷ đồng, tăng 144% và chi phí quản lý doanh nghiệp 129 tỷ đồng, tăng 24%. 

Kết quả, lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ âm hơn 202 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ lãi hơn 97,6 tỷ đồng. 

Theo giải trình của BCG, do tình hình kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thấp đã tác động đến các mảng hoạt động kinh doanh công ty; điều kiện kinh tế không thuận lợi cũng khiến BCG không phát sinh các hoạt động M&A và tư vấn M&A trong kỳ. Bên cạnh đó, lãi suất tăng khiến chi phí tài chính công ty tăng mạnh so với cùng kỳ. 

Lũy kế cả năm, lợi nhuận BCG vẫn là số dương, cụ thể, doanh thu thuần 4.531,6 tỷ đồng, tăng mạnh 75%, lãi sau thuế 546,5 tỷ đồng, lãi ròng 343 tỷ đồng, lần lượt giảm hơn 45% và 44%. Với kết quả này, BCG hoàn thành 62,5% kế hoạch doanh thu và 24,8% kế hoạch lợi nhuận.

Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh có cải thiện mạnh, dù âm hơn 2.747,6 tỷ đồng (so với số âm 9.012 tỷ đồng năm 2021) nhờ tăng các khoản phải thu. 

Tổng tài sản BCG tại thời điểm 31/12/2022 là hơn 44.006 tỷ đồng, tăng hơn 6.300 tỷ đồng, chủ yếu đến từ tăng trả trước cho người bán ngắn hạn hơn 3.057 tỷ đồng (tăng gấp 2,4 lần); tài sản cố định tăng hơn 1.888 tỷ đồng, và tăng các khoản mục đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh, lên 3.418 tỷ đồng (tăng 1,27 lần).

Cuối năm 2022, TPB không còn nằm trong danh mục chứng khoán của BCG, có giá trị gốc hồi đầu năm là 990 tỷ đồng.

Với danh mục đầu tư góp vốn vào đơn vị khác, BCG giải ngân mới các khoản đáng kể vào CTCP Đầu tư thương mại dịch vụ Gia Khang hơn 1.017 tỷ đồng, CTCP Đầu tư và dịch vụ Helios 545 tỷ đồng, CTCP Đầu tư và phát triển Sơn Long hơn 970 tỷ đồng… và một số công ty về điện năng lượng tái tạo. 

 Nguồn dữ liệu: Wichart.vn

Tổng nợ phải trả hơn 30.204,8 tỷ đồng, trong đó, tổng nợ vay là 14.934,8 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ/VCSH giảm từ 3,5 lần về 2,2 lần; tỷ lệ nợ vay/VCSH hơn 1,08 lần (giảm so với con số 1,64 tại thời điểm cuối năm 2021). Các tỷ lệ nợ vay này được đánh giá khá an toàn.

]]>
Yuanta Việt Nam: NHNN xem xét nới room ngoại 3 ngân hàng lên trên 30% https://doanhnhandautu.com/yuanta-viet-nam-nhnn-xem-xet-noi-room-ngoai-3-ngan-hang-len-tren-30/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:29 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4992 Theo Yuanta Việt Nam, đây là 3 ngân hàng tham gia tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém, bao gồm HDB, MBB và VPB. Mức nới room ngoại lên trên 30%, nhưng không quá 49%. ]]>
Theo Yuanta Việt Nam, đây là 3 ngân hàng tham gia tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém, bao gồm HDB, MBB và VPB. Mức nới room ngoại lên trên 30%, nhưng không quá 49%.

Việc nới room ngoại có thể sẽ chưa diễn ra ngay, nhưng đây là thông tin tích cực. Chuyên gia Yuanta Việt Nam kỳ vọng trong năm 2023, sẽ có nhiều hơn các đợt bán cổ phần trong ngành ngân hàng.

Đánh giá về nguồn vốn của các ngân hàng, Yuanta Việt Nam cho rằng, các ngân hàng Việt Nam đang sử dụng đòn bẩy cao và chịu áp lực huy động vốn. Tăng cường nguồn vốn của các ngân hàng là rất quan trọng đối với sự bền vững của hệ thống tài chính và nền kinh tế Việt Nam.

Tỷ lệ CAR chung của toàn ngành vào cuối tháng 10/2022 là 11,7%, cao hơn so với mức yêu cầu tối thiểu của Basel II là 8,0%. Tuy nhiên, tỷ lệ CAR của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước chỉ ở mức 9,0%, cao hơn một chút so với mức yêu cầu tối thiểu.

Vì vậy, các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước sẽ phải huy động thêm vốn để có thể cải thiện “bộ đệm vốn”. Việc này cấp thiết đối với trường hợp của Vietinbank (CTG – Yuanta Việt Nam không đánh giá), nhưng hiện tại ngân hàng này khó có thể huy động thêm vốn khi tỷ lệ sở hữu nước ngoài gần như đã được lấp đầy trong bối cảnh room ngoại bị giới hạn.

Rõ ràng, các ngân hàng có vốn Nhà nước đang khát vốn do đây là̀những ngân hàng có tỷ lệ CAR thấp nhất trong ngành.

Điều này cũng được phản ánh qua tỷ lệ Tài sản/Vốn chủ sở hữu quý III/2022. Tỷ lệ này tương đối cao tại các ngân hàng có vốn Nhà nước như CTG (16,5x) và BID (21,5x), so với mức trung vị ngành là 13,3x.

Yuanta Việt Nam: NHNN xem xét nới room ngoại 3 ngân hàng lên trên 30%

Lộ trình giảm tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn được tạm hoãn trong giai đoạn dịch COVID-19 bùng nổ, nhưng mọi thứ đã đi qua. Mức tỷ lệ tối đa giảm xuống còn 34% vào tháng 10/2022 và sẽ tiếp tục giảm còn 30% từ tháng 10/2023.

Do đó, các ngân hàng có thể sẽ cần huy động thêm nguồn vốn trung và dài hạn trong thời gian tới. Yuanta Việt Nam kỳ vọng các ngân hàng sẽ tăng vốn chủ sở hữu, đặc biệt là các ngân hàng vẫn còn room ngoại.

Được biết, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gần đây đang xem xét việc nới room cho các ngân hàng đã tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém (như HDB, MBB và VPB) lên cao hơn so với mức hiện tại là 30%, nhưng sẽ không vượt qua mức 49%.

Tuy nhiên, việc này sẽ xảy ra trong ngắn hạn do nguồn vốn tại các ngân hàng này thực sự khá vững chắc và sẽ không bị ảnh hưởng  đáng kể bởi việc tham gia tái cơ cấu ngân hàng yếu kém. 

Tuy nhiên, nếu NHNN xem xét việc nới room lên trên mức 30% (giả sử là 35%), điều đó chắc chắn sẽ giúp cải thiện bộ đệm vốn. Điều này sẽ có lợi cho các ngân hàng đã hết room ngoại như là CTG, với tỷ lệ sở hữu nước ngoài gần đạt  30% và ngân hàng này cũng cần tăng thêm vốn. 

Yuanta Việt Nam: NHNN xem xét nới room ngoại 3 ngân hàng lên trên 30%

Về kế hoạch bán vốn, VPB có kế hoạch sẽ bán 15% cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và chuyên gia Yuanta Việt Nam kỳ vọng giao dịch này sẽ hoàn tất vào đầu năm 2023. 

VCB cũng có dự kiến bán 6,5% vốn điều lệ cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, nhưng kế hoạch này đã bị trì hoãn trong hai năm qua. Ngân hàng cho biết sẽ tiếp tục triển khai  kế hoạch và dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2023 hoặc đầu năm 2024.

Về chất lượng tài sản ngành ngân hàng vẫn tốt, tỷ lệ nợ xấu tổng thể của 27 ngân hàng niêm yết là 1,60% (+26 điểm cơ bản) vào thời điểm cuối Q3/2022.

Yuanta Việt Nam dự báo, tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành sẽ tăng nhẹ lên 1,65% (+10 điểm cơ bản) vào năm 2023, một phần do Thông tư 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực. 

Ngoài ra, nợ xấu còn có thể tăng lên do các vấn đề liên quan đến ngành bất động sản, khi các điều kiện thanh khoản bị thắt chặt và thị trường trái phiếu doanh nghiệp bị kiểm soát chặt chẽ. Theo NHNN, dư nợ tín dụng của lĩnh vực bất động sản chiếm khoảng 20% tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống. 

Theo quan điểm của Yuanta Việt Nam, lợi nhuận của các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) thấp có khả năng giảm mạnh nhất. 

Các ngân hàng đầu tư nhiều vào trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là trái phiếu bất động sản (ví dụ MBB: chiếm 7,5% tổng tài sản, NVB: 7,1%, TPB: 7,1%, TCB: 6,5% và VPB: 6,4%) sẽ gặp rủi ro cao hơn so với các ngân hàng có tỷ lệ trái phiếu thấp (ví dụ: ACB: 0%). 

Yuanta Việt Nam: NHNN xem xét nới room ngoại 3 ngân hàng lên trên 30%

Tỷ lệ trái phiếu doanh nghiệp của MBB chiếm 7,5% tổng tài sản tính đến quý III/2022, đây là tỷ lệ cao nhất trong ngành. Tuy nhiên, MBB vẫn là một trong những lựa chọn hàng đầu nhờ vào nền tảng tài chính vững chắc (như có lợi thế về chi phí vốn), niềm tin vào ban lãnh đạo, và định giá cực kỳ hấp dẫn. 

Tỷ lệ trái phiếu cao có thể là một lo ngại đối với lợi nhuận của năm 2023, nhưng theo quan điểm của Yuanta Việt Nam, vấn đề này không ảnh hưởng nhiều đến khả năng thanh khoản của MBB. 

Nhìn chung, Yuanta Việt Nam cho rằng, nợ xấu sẽ tăng vào năm 2023 và các ngân hàng có tỷ lệ LLR thấp có thể cần tăng trích lập dự phòng, điều đó sẽ làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, các ngân hàng có tỷ lệ LLR cao (ví dụ như VCB) sẽ có thể linh hoạt hơn trong việc giảm trích lập dự phòng và từ đó thúc đẩy tăng lợi nhuận. Dự báo chi phí trích lập dự phòng của toàn ngành sẽ tăng +13% YoY vào năm 2023. 

Liên quan đến quản trị, tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) của ngành đã giảm kể từ năm 2015. Tốc độ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) của tổng thu nhập hoạt động (TOI) của toàn ngành trong giai đoạn 2015-2021 là 21%, trong khi tỷ lệ CAGR của chi phí hoạt động (opex) trong cùng giai đoạn chỉ 14%, chi phí giảm chủ yếu do ngân hàng thực hiện chuyển đổi số. 

Yuanta Việt Nam kỳ vọng chiến lược chuyển đổi số sẽ tiếp tục cải thiện hiệu quả chi phí cho các ngân hàng trong dài hạn. Đồng thời, kỳ vọng tỷ lệ CIR sẽ giảm nhẹ còn 35% (-1 điểm phần trăm) trong năm 2023 nhờ việc tiếp tục chuyển đổi số, nhưng bù lại là mức tăng trưởng TOI sẽ chậm lại. 

Thu nhập phí chiếm 13% tổng TOI điều chỉnh trong năm 2021 và tỷ lệ CAGR của thu nhập phí trong giai đoạn 2015-2021 là 30%. Kỳ vọng thu nhập phí sẽ tăng khoảng 20% YoY trong năm 2023, thấp hơn dự báo cho năm 2022E là 24% YoY, vì Yuanta Việt Nam cho rằng doanh thu bancassurance (mảng đóng góp chính cho thu nhập phí, chiếm khoảng 40% tổng thu nhập phí) sẽ tăng trưởng chậm lại do tăng trưởng tín dụng sẽ tương đối ảm đạm trong năm 2023. Theo quan sát, doanh thu bancassurance sẽ tăng trưởng tốt khi tăng trưởng tín dụng mạnh. 

Về lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ (PATMI) toàn ngành dự báo tăng 16% cho năm 2023 nhờ tăng trưởng thu nhập lãi thuần (+12%) và thu nhuận phí thuần (tằn 20%). Dự báo này thấp hơn so với mức tăng trưởng năm 2022 do tăng trưởng tín dụng gỉam và dự báo trích lập dự phòng tăng cao hơn. 

Yuanta Việt Nam nhận định, NIM sẽ gặp áp lực trong nửa đầu năm 2023 trong điều kiện chi phí huy động vốn tăng cao, nhưng NIM có thể sẽ cải thiện trong 2H23 khi lãi suất ổn định trở lại. Dự báo, tỷ lệ NIM của toàn ngành sẽ không đổi so với cùng kỳ và sẽ ở mức 3,57% trong năm 2023. 

Chi phí trích lập dự phòng ước tính sẽ tăng +13% trong năm 2023 do nợ xấu tiềm ẩn gia tăng liên quan đến bất động sản. Tuy nhiên, các ngân hàng có tỷ lệ LLR cao (như BID, CTG, MBB và đặc biệt là VCB) sẽ linh hoạt hơn trong việc giảm trích lập dự phòng và từ đó thúc đẩy tăng lợi nhuận. 

Nhìn chung, Yuanta Việt Nam ưu tiên lựa chọn các ngân hàng có tỷ lệ CASA cao và đặc biệt là trong bối cảnh chi phí huy động tiền gửi có kỳ hạn tăng cao. NIM của các ngân hàng có tỷ lệ CASA cao (như: TCB, MBB và VCB) sẽ đỡ bị tác động hơn các ngân hàng có tỷ lệ CASA thấp trong bối cảnh lãi suất tăng. 

Tuy nhiên, dự báo tăng trưởng tiền gửi CASA vẫn sẽ ở mức thấp trong nửa đầu năm 2023 do lãi suất đối với tiền gửi có kỳ hạn vẫn ở mức cao và điều kiện thanh khoản vẫn hạn hẹp trong thời gian tới. Tỷ lệ CASA của ngành sẽ được cải thiện trong nửa cuối năm 2023 khi lãi suất hạ nhiệt. 

Yuanta Việt Nam: NHNN xem xét nới room ngoại 3 ngân hàng lên trên 30%

Thanh khoản của ngành ngân hàng có thể bị tác động do tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn đã giảm từ mức 37% xuống 34% kể từ tháng 10 năm 2022 và sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 30% từ tháng 10/2023. 

Về định giá, các ngân hàng đang giao dịch ở mức P/B 2023 trung bình là 1,0x, hoặc tương ứng với -1 độ lệch chuẩn dưới mức trung bình. Yuanta Việt Nam dự báo ROE của ngành sẽ đạt 17% vào năm 2023. Do đó, định giá của ngành ngân hàng hiện tại đang hấp dẫn đối với các nhà đầu tư dài hạn.

Có 3 cổ phiếu được Yuanta Việt Nam khuyến nghị mua đó là VCB, ACB, và MBB.

Trong đó, VCB là ngân hàng có chất lượng cao nhất trong mô hình CAMEL, tỷ lệ CASA và LLR cao giúp tạo khả năng sinh lợi trong tương lai và có định giá cao hơn so với ngành.

Với ACB là ngân hàng có chất lượng tài sản vững chắc và ACB không đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp, luôn nằm trong top 3 bảng xếp hạng CAMEL của Yuanta Việt Nam. Hiện ACB đang giao dịch tương ứng P/B 2023 đạt 1,0x và ACB xứng đáng với mức định giá cao hơn so với ngành nhờ kết quả kinh doanh hiệu quả và chất lượng tài sản vững chắc. 

Với MBB, luôn xếp thứ hạng cao trong bảng xếp hạng CAMEL của Yuanta Việt Nam. Tỷ lệ CASA thuộc top 2 trong ngành ngân hàng, với 42,4% tính đến quý III/2022. Chất lượng tài sản vững chắc với tỷ lệ nợ xấu thấp (1,04%) và tỷ lệ LLR cao (208%).

Tuy nhiên, rủi ro tiềm ẩn khi MBB có tỷ trọng đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp cao nhất ngành (chiếm 7,5% tổng tài sản tính đến cuối quý III/2022). Định giá hấp dẫn. MBB đang giao dịch tương ứng với P/B 2023 đạt 0,8x, so với trung vị ngành là 1,0x mặc dù ROE năm 2023 là 23%

]]>
Năm 2022, lãi ròng DXG giảm mạnh hơn 87% https://doanhnhandautu.com/nam-2022-lai-rong-dxg-giam-manh-hon-87/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:15 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5186 Năm 2022, doanh thu thuần DXG đạt 5.581 tỷ đồng, giảm 45% và lãi sau thuế 469 tỷ đồng, giảm 71%. Lãi ròng chỉ gần 149 tỷ đồng, giảm hơn 87% so với năm 2021.]]>
Năm 2022, doanh thu thuần DXG đạt 5.581 tỷ đồng, giảm 45% và lãi sau thuế 469 tỷ đồng, giảm 71%. Lãi ròng chỉ gần 149 tỷ đồng, giảm hơn 87% so với năm 2021.

Trong quý 4/2022, doanh thu thuần CTCP Tập đoàn Đất Xanh (mã chứng khoán DXG) đạt 984 tỷ đồng, giảm 57%, trong đó, các mảng kinh doanh chính của DXG đều giảm so với cùng kỳ. Cụ thể, doanh thu bán căn hộ, đất nền giảm 69%, mảng dịch vụ môi giới bất động sản giảm 56%. Kết quả này khá tương đồng với diễn biến chung của thị trường bất động sản trong quý 4/2022.

Trong kỳ, doanh thu tài chính của DXG chỉ hơn 34 tỷ đồng, bằng 13% so với con số 260 tỷ đồng của cùng kỳ năm trước (chủ yếu đóng góp từ lãi từ thanh lý đầu tư), trong khi đó chi phí tài chính tăng 25% lên 168 tỷ đồng.

Kết quả, công ty ghi nhận lỗ trước thuế quý 4 hơn 424 tỷ đồng và lỗ ròng 407,6 tỷ đồng, trái ngược với khoản lãi 245 tỷ đồng của quý 4/2021. 

Theo giải trình của DXG, do tình hình khó khăn chung của thị trường ảnh hưởng đến thị trường bất động sản dẫn đến doanh số bán hàng ở mảng dịch vụ sụt giảm, trong khi công ty chưa kịp ghi nhận doanh thu – lợi nhuận từ các dự án do công ty làm chủ đầu tư và đã triển khai bán hàng thành công.

Lũy kế cả năm 2022, DXG ghi nhận doanh thu thuần đạt mức 5.581 tỷ đồng, giảm 45% và lãi sau thuế 469 tỷ đồng, giảm 71% so với kết quả năm 2021. Lãi ròng chỉ đạt gần 149 tỷ đồng, giảm mạnh hơn 87% so với năm 2021.

Tại thời điểm 31/12/2022, tổng tài sản của Đất Xanh tăng 8,9% so với đầu năm lên 30.771,4 tỷ đồng. Chủ đạo là tài sản ngắn hạn 27.800 tỷ đồng, bao gồm 919 tỷ đồng tiền và các khoản tương đương tiền, giảm 66,4%, các khoản phải thu tăng 12,7% lên 12.169,3 tỷ đồng, hàng tồn kho tăng 26,7% lên 14.238 tỷ đồng.

Tổng nợ phải trả tăng 12,6% so với đầu kỳ lên 16.751 tỷ đồng, trong đó 12.777 tỷ đồng là nợ ngắn hạn. Cơ cấu nợ của DXG được cấu trúc theo hướng giảm nợ vay ngắn hạn với mức giảm 32% về 2.023 tỷ đồng, còn nợ vay dài hạn tăng mạnh, gấp 2,5 lần so với đầu kỳ, lên 3.748 tỷ đồng. Trong nợ vay dài hạn, nợ trái phiếu là 1.788,7 tỷ đồng, tăng gần 370 tỷ đồng. 

]]>
Bất động sản quý IV/2022 quá khó, PDR lỗ ròng 267 tỷ đồng https://doanhnhandautu.com/bat-dong-san-quy-iv-2022-qua-kho-pdr-lo-rong-267-ty-dong/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:12 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5216 Song song với việc tái cấu trúc tài chính thông qua việc giảm nợ vay trái phiếu, PDR cũng thay đổi danh mục sản phẩm, tập trung nhiều hơn cho các dự án bất động sản dân dụng. ]]>
Song song với việc tái cấu trúc tài chính thông qua việc giảm nợ vay trái phiếu, PDR cũng thay đổi danh mục sản phẩm, tập trung nhiều hơn cho các dự án bất động sản dân dụng.

Báo cáo tài chính quý IV/2022 của Công ty CP Phát triển bất động sản Phát Đạt (mã chứng khoán PDR) cho thấy, doanh thu thuần chỉ đạt gần 15 tỷ đồng, giảm đến 99% so với con số 1.229 tỷ đồng cùng kỳ, chủ yếu đến từ hoạt động cung cấp dịch vụ.

Trong khi đó, hoạt động chuyển nhượng đất và hàng hoá bất động sản không tạo ra doanh thu trong kỳ. 

Các chi phí bán hàng, quản lý doanh nghiệp không có sự thay đổi đáng kể, nhưng chi phí tài chính có sự tăng vọt, gấp 3 lần cùng kỳ, đạt 221 tỷ đồng, trong đó, chi phí lãi vay 140 tỷ đồng và PDR còn ghi nhận thêm khoản lỗ chuyển nhượng cổ phần công ty con hơn 70 tỷ đồng. Doanh thu tài chính không đáng kể, 16 tỷ đồng. 

Kết quả, PDR ghi nhận lỗ ròng 267 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ lãi 754 tỷ đồng. Đây là lần đầu tiên Phát Đạt báo lỗ kể từ năm 2011.

Quý IV/2022 là giai đoạn khó khăn đối với ngành bất động sản khi phải đối diện với lãi suất tăng, áp lực thanh toán trái phiếu và nhu cầu thị trường sụt giảm. Diễn biến này tác động tới hầu hết các doanh nghiệp trong ngành, bức tranh lợi nhuận kém khả quan là điều dự đoán trước. 

Với kết quả trên, theo giải trình của PDR, tình hình khó khăn chung của toàn thị trường, đặc biệt là ngành bất động sản đã khiến việc đầu tư kinh doanh của công ty vào các dự án bất động sản không được thuận lợi. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn thực hiện chiến lược tái cơ cấu danh mục đầu tư.

Tính cả năm 2022, PDR ghi nhận doanh tài chính tăng đột biến lên 1267 tỷ đồng, nhờ công ty đã ghi nhận gần 1.249 tỷ đồng lãi chuyển nhượng hơn 72% cổ phần tại CTCP Địa ốc Sài Gòn KL. 

Luỹ kế cả năm, PDR đạt 1.505 tỷ đồng doanh thu và lãi ròng 1.146 tỷ đồng, lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS) đạt 1.646 tỷ đồng. Với kết quả này, PDR hoàn thành 14% kế hoạch doanh thu và 40% kế hoạch lợi nhuận. 

Tại thời điểm cuối năm 2022, tổng tài sản ghi nhận hơn 22.845 tỷ đồng, tăng 2.293 tỷ đồng. Trong đó, các khoản phải thu ngắn hạn 5.650 tỷ đồng, tăng 123%. Hàng tồn kho 12.131 tỷ đồng, tương đương đầu năm. 

Về cơ cấu nguồn vốn, vốn chủ sở hữu ở mức 9.270 tỷ đồng. Tổng nợ phải trả 13.576 tỷ đồng, tăng 13% so với đầu năm. 

Bất động sản quý IV/2022 quá khó, PDR lỗ ròng 267 tỷ đồngNguồn dữ liệu: Wichart.vn

Trong đó, nợ vay tài chính ngắn và dài hạn gần 4.440 tỷ đồng, với hơn 50% là nợ trái phiếu 2.510 tỷ đồng (trái phiếu sắp đến hạn là 2.214 tỷ đồng). Con số tổng nợ vay này giảm khá mạnh so với thời điểm cuối quý 3/2022, ghi nhận ở mức khoảng 5.200 tỷ đồng, chủ yếu nhờ PDR đã tích cực tất toán trái phiếu đến hạn trong quý 4. 

Trung tuần tháng 1/2023, PDR đã tiếp tục tất toán 893 tỷ đồng trái phiếu trước hạn, ngoài việc đảm bảo nghĩa vụ trả nợ với các nhà đầu tư trái phiếu còn là động thái để chủ đầu tư tiếp tục phát triển dự án Chung cư 239 CMT8. Đây là dự án sở hữu vị trí đắc địa, hiếm hoi ngay mặt tiền đường CMT8, trung tâm quận 3, TP.HCM với tiềm năng khai thác và phát triển rất lớn.

Trước đó trong quý IV/2022, Phát Đạt đã chi hơn 1.300 tỷ đồng tất toán nghĩa vụ trái phiếu và các khoản vay ngân hàng. 

Bất động sản quý IV/2022 quá khó, PDR lỗ ròng 267 tỷ đồng

Nguồn dữ liệu: Wichart.vn

Theo kế hoạch của PDR, song song với việc tái cấu trúc tài chính thông qua việc giảm nợ vay trái phiếu, công ty cũng thay đổi danh mục sản phẩm, tập trung nhiều hơn cho các dự án bất động sản dân dụng. 

PDR dự kiến đưa ra thị trường các dự án ở Bình Định, dự án Bình Dương quy mô khoảng 5.000 căn hộ, dự án Phước Hải – Vũng Tàu; và dự kiến cuối năm nay – quý I/2023 sẽ hoàn thành đền bù giải phóng mặt bằng dự án hơn 43 ha ở Bình Định, là có thể xây dựng hạ tầng và triển khai kinh doanh.

Các dự án này đưa vào kinh doanh sẽ tạo ra dòng tiền cho PDR, và với PDR, một khi đã đưa dự án bán hàng tức là đã đủ điều kiện pháp lý, lãnh đạo PDR cho biết. 

]]>