#TPBank – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sat, 09 Aug 2025 14:41:52 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #TPBank – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 TPBank cho phép thanh toán quốc tế qua mã QR, ‘đi du lịch’ không cần tiền mặt https://doanhnhandautu.com/tpbank-cho-phep-thanh-toan-quoc-te-qua-ma-qr-di-du-lich-khong-can-tien-mat/ Sat, 09 Aug 2025 14:41:48 +0000 https://doanhnhandautu.com/tpbank-cho-phep-thanh-toan-quoc-te-qua-ma-qr-di-du-lich-khong-can-tien-mat/

Trong thời đại số hóa hiện nay, việc sử dụng các phương thức thanh toán điện tử đã trở nên phổ biến và tiện lợi hơn bao giờ hết. Đặc biệt, tính năng thanh toán quốc tế qua mã QR đang ngày càng được ưa chuộng bởi sự tiện lợi và đơn giản của nó. Một trong những ngân hàng tiên phong trong lĩnh vực này là Ngân hàng TMCP Thái Bình Dương, hay còn gọi là TPBank.

Tiện lợi 2 chiều: Từ người Việt tại nước ngoài đến du khách quốc tế đến Việt Nam
Tiện lợi 2 chiều: Từ người Việt tại nước ngoài đến du khách quốc tế đến Việt Nam

TPBank đã triển khai tính năng thanh toán QR quốc tế trên ứng dụng di động của mình, cho phép người dùng thực hiện các giao dịch thanh toán trực tiếp bằng cách quét mã QR tại các điểm bán hàng ở nước ngoài. Điều này giúp du khách không cần phải đổi tiền mặt khi ra nước ngoài, tiết kiệm thời gian và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến việc mang tiền mặt.

Một trong những điểm nổi bật của dịch vụ thanh toán QR quốc tế của TPBank là hợp tác với mạng lưới thanh toán quốc gia Thái Lan PromptPay. Thông qua hợp tác này, người dùng ứng dụng di động của TPBank có thể thanh toán tại Thái Lan mà không cần đổi ngoại tệ. Người dùng cũng có thể kiểm soát chi tiêu tốt hơn trong cả hành trình nhờ lịch sử giao dịch được cập nhật tức thì trên ứng dụng.

Không chỉ hỗ trợ người Việt chi tiêu ở nước ngoài, TPBank còn triển khai hệ thống QR vạn năng Quốc tế cho phép du khách nước ngoài quét mã bằng ví điện tử nội địa của chính họ để thanh toán tại Việt Nam. Điều này giúp du khách quốc tế có thể dễ dàng thực hiện các giao dịch thanh toán tại Việt Nam mà không cần phải lo lắng về việc đổi tiền hoặc sử dụng các phương thức thanh toán phức tạp.

Với mạng lưới thanh toán QR quốc tế rộng khắp khu vực, TPBank đang mở lối cho người Việt “sống số” xuyên biên giới, mang đến trải nghiệm thanh toán liền mạch cho du khách quốc tế tại Việt Nam. Qua đó, TPBank không chỉ phục vụ nhu cầu của khách hàng trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu của du khách quốc tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch và thương mại điện tử.

Việc TPBank triển khai tính năng thanh toán QR quốc tế là một bước tiến quan trọng trong việc hiện đại hóa các dịch vụ tài chính và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Thông qua các dịch vụ này, TPBank đang khẳng định vị thế của mình trong lĩnh vực tài chính và công nghệ, cũng như cam kết mang đến những trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng.

Khách hàng có thể tìm hiểu thêm về dịch vụ thanh toán QR quốc tế của TPBank thông qua trang web chính thức của ngân hàng hoặc liên hệ trực tiếp với bộ phận hỗ trợ khách hàng của TPBank để được tư vấn và hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng dịch vụ.

]]>
Hệ thống quản trị rủi ro tiêu chuẩn thế giới, TPBank là ngân hàng vững mạnh hàng đầu Việt Nam https://doanhnhandautu.com/he-thong-quan-tri-rui-ro-tieu-chuan-the-gioi-tpbank-la-ngan-hang-vung-manh-hang-dau-viet-nam/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:37 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3389 Nhờ khả năng quản trị tốt, chất lượng tài sản đảm bảo cùng chiến lược phát triển số hóa, năm 2022, TPBank không chỉ gặt hái kết quả kinh doanh khả quan mà còn tiếp tục được xếp hạng uy tín cao. ]]>
Nhờ khả năng quản trị tốt, chất lượng tài sản đảm bảo cùng chiến lược phát triển số hóa, năm 2022, TPBank không chỉ gặt hái kết quả kinh doanh khả quan mà còn tiếp tục được xếp hạng uy tín cao.
Hệ thống quản trị rủi ro tiêu chuẩn thế giới, TPBank là ngân hàng vững mạnh hàng đầu Việt Nam

Bền bỉ vượt qua 2022 đầy thách thức

Năm 2022 là năm kinh tế thế giới và trong nước đều phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn. Lạm phát gia tăng trên quy mô toàn cầu, lãi suất và đồng USD liên tục tăng cao, chiến tranh và xung đột chính trị chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, nền kinh tế Việt Nam không chỉ chịu nhiều ảnh hưởng sau 2 năm đại dịch COVID-19 mà cộng hưởng với nhiều diễn biến bất lợi trên thị trường… đã tạo tác động mạnh tới niềm tin của nhà đầu tư.

Trước tình hình đó, Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank – HOSE: TPB) đã chủ động trong các kế hoạch kinh doanh, thực hiện kiểm soát chặt chẽ doanh thu – chi phí để phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và diễn biến thị trường trên cơ sở trích lập dự phòng rủi ro theo quy định.

Với những nỗ lực bền bỉ vượt qua các thách thức, năm 2022, lợi nhuận trước thuế của TPBank đạt 7.828 tỷ đồng, tương đương tăng khoảng 30% so với năm 2021. Mức lợi nhuận này còn đến từ việc gia tăng dịch vụ bảo lãnh và tài trợ thương mại để tăng thu nhập từ phí. Ngoài ra, sự phục hồi tích cực của các khách hàng được giãn nợ trong thời kỳ dịch bệnh cũng góp phần gia tăng nguồn thu của ngân hàng. Trích lập dự phòng rủi ro cũng thấp hơn các năm trước.

Tổng tài sản của ngân hàng ghi nhận tăng hơn 12% so với cùng kỳ năm trước, cán mốc gần 329 nghìn tỷ đồng. Tổng thu nhập hoạt động của TPBank trong năm nay đạt trên 15.600 tỷ đồng, tăng hơn 15,5% so với năm 2021. Lãi thuần từ dịch vụ đạt khoảng 2.700 tỷ đồng, tăng gần 75% so với cùng kỳ.

Bền bỉ vượt qua 2022 đầy thách thức

 Song song, bằng việc điều tiết nhu cầu tăng trưởng huy động theo nhu cầu sử dụng vốn nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất, tổng huy động năm 2022 của TPBank đã đạt những bước tiến lớn khi chạm mốc khoảng 289 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 10% so với cùng kỳ. Nguồn vốn cũng được TPBank sử dụng hiệu quả với chỉ số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) đạt khoảng 2%. Tỷ lệ dư nợ trên tổng tiền gửi (LDR) của TPBank ở mức khoảng 85%, TPBank đã thu hút được nguồn vốn huy động lớn từ dân cư, chính bởi niềm tin và sự ghi nhận từ khách hàng vào một định chế tài chính vững mạnh.

Có kết quả tăng trưởng tốt, những năm gần đây, TPBank còn luôn sẵn sàng đồng hành, chia sẻ với người dân và khách hàng xuyên suốt các thời kỳ khó khăn bởi dịch bệnh và diễn biến bất định của thị trường. Không chỉ đóng góp hàng chục tỷ đồng cho các hoạt động phòng chống dịch bệnh, TPBank liên tục đưa ra nhiều chương trình hỗ trợ lãi suất lớn và đặc biệt sẵn sàng chia sẻ phần nào lợi nhuận kinh doanh của mình trong năm để bình ổn lãi suất cho vay, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp.

Những con số bứt phá đầy ấn tượng trên là minh chứng rõ ràng nhất cho những nỗ lực của TPBank, đặc biệt mạnh mẽ trong những năm gần đây. Không chỉ tạo được dấu ấn mạnh về quản trị mà còn không ngừng số hóa, liên tục cho ra mắt sản phẩm, dịch vụ công nghệ nổi trội, mang nhịp đập và hơi thở của cuộc sống và đậm chất riêng, biến những giao dịch tài chính khô khan thành trải nghiệm thú vị, màu sắc. Một loạt giải thưởng liên tiếp cho ngân hàng số của The Asian Banker, IDG Việt Nam và AIBP trong năm 2022 đã khẳng định uy tín và thành công của nhà băng trong việc chuyển đổi số toàn diện, phát triển một hệ sinh thái ngân hàng số đồng bộ, thân thiện và thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng.

10 năm phát triển vững vàng, vươn lên trở thành ngân hàng vững mạnh nhất Việt Nam 2022

Giới phân tích vẫn thường nhắc đến TPBank như một ví dụ về sự thành công của chuyển đổi số, một cách thực chất và hiệu quả. Thành quả lợi nhuận của 10 năm qua có đóng góp lớn lao của hướng đi riêng biệt, tập trung vào công nghệ, trọng tâm là ngân hàng số. Từ một nhà băng non trẻ, trong hoàn cảnh ngặt nghèo, vừa thiếu vốn, vừa thiếu nền tảng, TPBank đã “thay da đổi thịt” dần lấy lại phong độ và bứt tốc trên đường đua, đưa lợi nhuận và tổng tài sản của TPBank không ngừng tăng trưởng sau các năm. Có thể nói, chuyển đổi số đã “chuyển đổi số … phận” của TPBank, giúp nhà băng từ một ngân hàng phải tái cơ cấu với khoản lỗ lũy kế hàng ngàn tỷ vươn lên trở thành một ngân hàng hoạt động hiệu quả với ROE hai năm gần nhất lần lượt là 22,61% (2021) và 21,48% (2022) thuộc TOP cao trong hệ thống NHTM. 

Bền bỉ vượt qua 2022 đầy thách thức
Bền bỉ vượt qua 2022 đầy thách thức

Sau 10 năm, chỉ số lợi nhuận mà TPBank gặt hái được có đóng góp rất lớn từ các giải pháp số cho sản phẩm và dịch vụ số đặc trưng, khác biệt.

Tháng 12/2022, trong bảng xếp hạng 500 ngân hàng mạnh nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do tạp chí The Asian Banker công bố, TPBank đứng thứ 61, vượt 143 bậc so với năm ngoái và vượt lên cả những tên tuổi như Vietcombank (đứng thứ 66), MB (đứng thứ 72), Vietinbank (đứng thứ 129), BIDV (đứng thứ 127), Techcombank (đứng thứ 101),…. Trong các ngân hàng Việt, TPBank gây bất ngờ khi từ vị trí thứ 7 năm 2021 để vươn lên dẫn đầu trong bảng xếp hạng năm 2022 với điểm số cao ở nhiều tiêu chí như tỷ lệ an toàn vốn, khả năng sinh lời, chất lượng tài sản, thanh khoản,… Là ngân hàng tiên phong hiện áp dụng theo chuẩn Basel III, ILAAP, IFRS, các chỉ số về an toàn vốn và thanh khoản được TPBank quản lý rất chặt chẽ. Theo đó, tỷ lệ an toàn vốn theo Basel III (CAR) tại 30/11/2022 đạt 12.96 %, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn là 8%. Tỷ lệ nợ xấu của luôn nằm trong top thấp nhất khi được kiểm soát chặt chẽ ở mức dưới 1%.

Ông Nguyễn Hưng, Tổng Giám đốc TPBank chia sẻ: “Khi triển khai đồng thời các chuẩn mực này, áp lực về kế hoạch vốn của ngân hàng trong trung và dài hạn là rất lớn, buộc TPBank phải lập kế hoạch chặt chẽ, tối ưu hoá nguồn vốn, xây dựng các kế hoạch kinh doanh hiệu quả nhằm đảm bảo sự phát triển nhanh nhưng vững bền của ngân hàng. Xếp hạng và sự công nhận của The Asian Banker đã phản ánh rất chính xác tương quan thị trường và là sự ghi nhận tốt nhất cho những nỗ lực không ngừng của TPBank trong thời gian qua.”

Năm 2022, Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (VNR) công bố TPBank là một trong 10 ngân hàng thương mại Việt Nam Uy tín, đồng thời là một trong số 4 ngân hàng tư nhân Uy tín nhất của năm 2022. TPBank đã liên tiếp giữ vững vị trí trong bảng xếp hạng này 4 năm liên tiếp. TPBank cũng được tổ chức uy tín Moody’s đánh giá xếp hạng tín nhiệm cao tới 2 lần và thuộc top đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Xếp hạng tín nhiệm của TPBank được Moody’s nâng lên mức Ba3, triển vọng ổn định, thể hiện sự ghi nhận của Moody’s về các chỉ số kinh tế vĩ mô tích cực, cùng việc cải thiện chất lượng tài sản, khả năng kiểm soát tốt rủi ro và năng lực sinh lời của TPBank trong thời gian qua, khẳng định hành trình tiến bước vững vàng của ngân hàng trong năm 2023 và nhiều năm tiếp theo.

]]>
Chất lượng tài sản ngân hàng ra sao trong năm 2023 https://doanhnhandautu.com/chat-luong-tai-san-ngan-hang-ra-sao-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:14 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5200 Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.]]>
Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Thực tế, chất lượng tín dụng trong quý III và IV/2022 cho thấy, kết quả kinh doanh nhiều ngân hàng không khả quan, khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên, dù tỷ lệ dự phòng giảm.

Chẳng hạn, tại Saigonbank, một điểm tối trong bức tranh kinh doanh năm qua của Ngân hàng là tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 chiếm gần 398 tỷ đồng trong tổng dư nợ, tăng 22% so với đầu năm. Nợ dưới tiêu chuẩn có tốc độ tăng mạnh nhất. Do đó, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,97% đầu năm lên 2,12%.

Trong năm 2022, Saigonbank trích hơn 250 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó, Ngân hàng thu được hơn 237 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 54% so với năm trước. So với kế hoạch lãi trước thuế 190 tỷ đồng cho cả năm 2022 đã vượt 25% chỉ tiêu.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Với TPBank, chất lượng nợ vay đi lùi khi tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của nhà băng này tăng 17% so với đầu năm, chiếm 1.357 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, tăng mạnh nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 và phải trích 100% dự phòng rủi ro). Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng nhẹ từ 0.82% đầu năm lên 0,84%.

Năm qua, TPBank trích gần 1.844 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, giảm 37%, do đó Ngân hàng thu về hơn 7.828 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 30% so năm trước. Nhưng nếu so với kế hoạch 8.200 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế đề ra cho cả năm, TPBank chỉ mới thực hiện được 95% mục tiêu.

Việc kiểm soát nợ xấu trong năm 2022 cũng là một thử thách lớn trước thực trạng khó khăn chung của nền kinh tế và hoạt động của các doanh nghiệp, tuy nhiên ABBank đã trích lập dự phòng cho các khoản vay. Tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của ngân hàng gần 2.366 tỷ đồng, tăng 46% so với đầu năm qua. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ 2,34% đầu năm lên 2,88%.

Chi phí hoạt động năm qua của ABBank chỉ tăng 8%, lên gần 2.043 tỷ đồng. Trong năm qua, ABBank trích ra gần 777 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó Ngân hàng chỉ thu về hơn 1.702 tỷ đồng lãi trước thuế, giảm 13% so với năm trước. So với kế hoạch 3,079 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, ABBank chỉ thực hiện được 55% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của LienVietPostBank (LPB) tăng 20% so với đầu năm qua, chiếm 3.427 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh nhất. Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,37% đầu năm lên 1,46%. Nhưng dù trong năm LPB dành ra gần 3.174 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, gấp 2,4 lần so cùng kỳ năm trước, Ngân hàng vẫn thu được gần 5.690 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 56%. Như vậy, nếu so với kế hoạch 4.800 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, LPB đã vượt 19% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của VIB tăng 22% so với đầu năm, chiếm 5.687 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 2,32% đầu năm lên 2,45%. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 23%, đạt gần 11.861 tỷ đồng. Trong năm qua, VIB dành ra gần 1.280 tỷ đồng để trích lập dự phòng rủi ro, giảm 22%. Kết quả, VIB thu được hơn 10.581 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 32%. Như vậy, VIB đã hoàn thành kế hoạch 10.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2022 đặt ra.

Ngoài ra, dù chưa chính thức công bố báo cáo tài chính nhưng hiện đã có một số ngân hàng thông báo kết quả kinh doanh năm 2022. Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2023, Vietcombank đã công bố kết quả kinh doanh năm 2022. Trong đó, về chất lượng tín dụng, ngân hàng cho biết tổng số dư nợ xấu là 7.662 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,67%. Với VietinBank, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng được kiểm soát ở mức 1,2%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu xấp xỉ 190% (tăng 10% so với năm 2021). Kết quả thu hồi nợ gốc lãi xử lý rủi ro tăng hơn 60% so với số thu năm 2021.

Còn tại BIDV, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1,96 triệu tỷ đồng, tăng 19% so với đầu năm, trong đó dư nợ tín dụng đạt 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 12.65% so với đầu năm, cao hơn mức thực hiện năm 2021 (11,8%). Tỷ lệ nợ xấu theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN được ngân hàng kiểm soát ở mức 0,9%.

Hay trước đó, tại thời điểm kết thúc 9 tháng đầu năm, báo cáo tài chính các ngân hàng đã cho thấy nợ xấu hâu hểt ngân hàng đều có xu hướng tăng mạnh. Có những nhà băng tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng vượt ngưỡng 3%. Xét về mức độ tăng trưởng, MB, ACB và Vietbank là những ngân hàng có số dư nợ xấu tăng nhanh với mức tăng 30-45% so với cùng kỳ, với số dư nợ xấu lần lượt là 4.415 tỷ đồng, 4.056 tỷ đồng và 2.456 tỷ đồng.

Tuy nhiên, Vietcombank, MB, BIDV, ACB, VietinBank, SHB, Techcombank, TPBank… là những ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, trong đó Vietcombank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên đến gần 500%.

NCB cũng là nhà băng có nợ xấu cao. Phía ngân hàng cho biết nguyên nhân nợ xấu tăng trong kỳ do ngân hàng thực hiện phân loại lại nợ xấu, nợ quá hạn theo đúng tình trạng khoản nợ theo quy định của NHNN, đặc biệt là sau khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng do dịch Covid-19 đã hết hạn vào ngày 30/6/2022.

Nhận định về nợ xấu ngân hàng năm 2022, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tức là nợ xấu của nền kinh tế, hiện nay có xu hướng tăng lên, công tác kiểm soát nợ xấu sẽ gặp khó khăn bởi dịch bệnh kéo dài, tác động có độ trễ nên sẽ ảnh hưởng lớn hơn hoạt động ngân hàng trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

NHNN cho rằng, những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể sẽ bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới, khi đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dự báo sẽ tiếp tục tăng. Thực tế, năm 2022, nợ xấu ngân hàng vẫn là thách thức khó khăn trong bối cảnh lạm phát và lãi suất tăng cao.

Giới phân tích cho rằng, trong những tháng cuối năm 2022, nợ xấu ngành ngân hàng có thể tăng thêm và tiếp tục phân hóa tùy thuộc vào tính chất tệp khách hàng cũng như các yếu tố vĩ mô như sự phục hồi kinh tế và kiểm soát lạm phát. Dự báo về nợ xấu nội bảng năm 2022, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia dự báo nợ xấu nội bảng có thể lên mức 2,3 – 2,5%. Đồng thời, nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024, quy định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan.

Chất lượng tài sản trong 2023 ra sao

Theo kết quả cuộc điều tra xu hướng tín dụng của các tổ chức tín dụng do NHNN thực hiện , dự báo 6 tháng tới và năm 2023, các tổ chức tín dụng quan ngại mặt bằng rủi ro tín dụng tổng thể tiếp tục tăng nhẹ ở hầu hết các lĩnh vực ngoại trừ một số lĩnh vực cho vay phát triển nông, lâm, thủy sản, cho vay đầu tư ứng dụng công nghệ cao, cho vay đầu tư công nghiệp hỗ trợ, cho vay công nghiệp chế biến chế tạo được kỳ vọng rủi ro giảm.

Hai lĩnh vực được dự báo vẫn tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao nhất là cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán.

Trong 6 tháng đầu năm 2023 và cả năm 2023, 61,6%- 64,6% tổ chức tín dụng dự kiến giữ nguyên tiêu chuẩn tín dụng, chỉ có 19,2%-20,2% tổ chức tín dụng dự kiến “thắt chặt nhẹ” tiêu chuẩn tín dụng tổng thể của đơn vị mình, tuy nhiên mức độ thắt chặt đã giảm so với 6 tháng cuối năm 2022 và cả năm 2022, đồng thời có 16,2-17,2% tổ chức tín dụng dự kiến “nới lỏng”.

Dự kiến “thắt chặt” chủ yếu diễn ra ở lĩnh vực “Cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản”, “Cho vay kinh doanh tài chính, ngân hàng và bảo hiểm”, khoản vay trung, dài hạn và khoản vay bằng ngoại tệ. Theo nhận định của các tổ chức tín dụng, nguyên nhân chủ yếu là do “Mức độ rủi ro của thị trường” tăng lên (“Rủi ro từ phía khách hàng”; “Rủi ro ngành nghề”) cùng với những thách thức về triển vọng kinh tế.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản được giới phân tích tài chính nhận định, không chỉ ảnh hưởng triển vọng tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu.

VDSC cho rằng, năm 2023, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục hành trình vượt bão trong chu kỳ bất động sản đi xuống cùng với triển vọng kém tích cực của xuất nhập khẩu, nhưng khả năng chống chịu của từng ngân hàng sẽ tùy thuộc vào chất lượng tài sản và mức độ thận trọng của ngân hàng trong những năm qua. Tuy nhiên, quy mô nợ xấu và chi phí tín dụng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng, dựa trên mức độ thận trọng của ngân hàng trong việc trích lập dự phòng và khả năng hồi phục tài chính của của khách hàng.

Trong khi đó, VNDirect nhận định, bên cạnh căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến việc các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về thanh khoản, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao, do USD và lãi suất tiền đồng tăng, ảnh hưởng lên khả năng trả nợ. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023.

Tuy nhiên, với các ngân hàng đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và không liên quan nhiều đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Vì thế, NHNN cho biết, tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…

Đáng chú ý, Phó thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Một trong những thách thức lớn nhất là lạm phát cao, các ngân hàng trung ương lớn trên giới như Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất chứ không chỉ dừng lại ở đó, do đó, áp lực tăng lãi suất rất cao. Với ngành ngân hàng trong nước, các ngân hàng thương mại sẵn sàng tiếp tục hy sinh lợi nhuận để giảm lãi suất, chia sẻ với doanh nghiệp, với nền kinh tế trong năm 2023.

Dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Trong đó, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.

Vì vậy, cá chuyên gia kinh tế – tài chính dự báo trong năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Tương tự, Công ty Chứng khoán SSI đánh giá, năm 2023 sẽ là năm chông gai đối với ngành ngân hàng. Bởi lẽ, khi nhìn ở góc độ trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, nhiều doanh nghiệp bất động sản bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn và tái cơ cấu cho hoạt động kinh doanh của mình.

Điều này có thể sẽ làm gia tăng rủi ro liên quan đến khả năng trả nợ của những công ty này với ngân hàng. Thêm vào đó, tổng dư nợ toàn bộ các khoản cho vay mua nhà tại các ngân hàng SSI phân tích ở mức khoảng 1,3 triệu tỷ đồng. Thế nhưng, thị trường bất động sản lại đang có xu hướng giảm giá và chưa thấy tín hiệu hồi phục.

SSI duy trì quan điểm rằng, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản trong thời gian tới. Trừ khi có các quy định đặc biệt về phân loại nợ, trích lập dự phòng cho các khoản vay,trái phiếu đáo hạn vào năm 2023 được thực hiện, nợ xấu và trích lập dự phòng sẽ là những áp lực tương đối lớn.

Ngân hàng gia tăng bộ đệm dự phòng rủi ro

Theo WiGroup, tỷ lệ nợ xấu đã tăng quý thứ 4 liên tiếp và đạt mức 1,6% toàn hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu chủ yếu đến các khoản nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) đã tăng mạnh hơn 30.000 tỷ đồng (tăng 70%) so với đầu năm 2022.

rủi ro

WiGroup cho rằng, diễn biến này dường như đã nằm trong kịch bản của các ngân hàng nhờ tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức rất cao trước đó (150% trong quý I/2022) giúp giảm đi áp lực trích lập dự phòng nếu nợ xấu tiếp tục gia tăng. Tính đến cuối quý III/2022, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã giảm xuống còn 141%.

Bức tranh nợ xấu năm 2022 của ngành ngân hàng chứng kiến sự gia tăng mạnh về số dư nợ xấu, trong đó có nợ nhóm 5. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản của ngân hàng đã bị ảnh hưởng bởi việc Thông tư 14 này hết hiệu lực.

Theo số liệu của Chứng khoán VNDirect, tỷ lệ nợ xấu trung bình của ngành tăng lên mức 1,44% vào cuối quý III/2022 từ 1,34% vào cuối quý II và 1,28% cuối năm 2021. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) trung bình của ngành đã tăng lên mức 168,7% vào cuối quý III/2022, thấp hơn so với mức 172,6% vào cuối quý II nhưng vẫn cao hơn mức 159,6% vào cuối năm 2021.

Trong khi đó, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, tỷ lệ nợ xấu chỉ nhích nhẹ sau khi nợ tái cơ cấu do Covid-19 bị chuyển nhóm nợ từ quý III/2022, sau khi thông tư 03/2021 cho phép giữ nguyên nhóm nợ. Ngoài ra, hầu hết ngân hàng đều đã trích lập đủ dự phòng cho các khoản nợ cơ cấu và nợ kéo theo, các ngân hàng còn lại chưa trích lập đủ sẽ phải đối mặt với khả năng chi phí tín dụng gia tăng đối với nợ cơ cấu trong những quý tới.

Theo kết quả kinh doanh năm 2022 mới công bố, tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu của Vietcombank đạt 465%, cao nhất toàn hệ thống ngân hàng. VietinBank cũng đã công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 245%, mức cao nhất trong các năm gần đây. Các số liệu công bố trước đó của một số ngân hàng khác như BIDV, Techcombank, ACB, MB… cũng đều cho thấy tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%.

Trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng sẽ có sự gia tăng nợ xấu và chi phí tín dụng trong vài quý tiếp theo do rủi ro từ vĩ mô thế giới ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng ngành xuất nhập khẩu cũng như triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chu kỳ đi xuống của ngành bất động sản và những rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng chiếm xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản không chỉ ảnh hưởng triển tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu. Tổng số trái phiếu doanh nghiệp sau khi loại trừ nhóm trái phiếu do ngân hàng phát hành hiện đang lưu hành là khoảng 945 nghìn tỷ đồng, trong đó 27% sẽ đáo hạn vào năm 2023 và 2024, và 12% sẽ đáo hạn vào năm 2025. Gần một phần ba số trái phiếu này nằm trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.

Tuy nhiên, con số này vẫn không bao gồm những trái phiếu đã được phân phối cho các nhà đầu tư cá nhân, nhưng có bảo lãnh thanh toán cũng như những trái phiếu hiện không có trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng vẫn sẽ chịu rủi ro tín dụng liên quan đối với những trái phiếu theo hợp đồng repo.

Đáng chú ý, nhiều chủ đầu tư bất động sản đang phải đối mặt với các khó khăn với lượng hàng tồn kho tăng lên, doanh số bán hàng giảm và chịu áp lực đáng kể về dòng tiền ngắn hạn khi một số trái phiếu sắp đến ngày đáo hạn, đặc biệt là trong giai đoạn từ tháng 12/2022 đến tháng 3/2023, kéo nợ xấu tăng. 

Do đó, các chuyên gia tài chính cho rằng, các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và ít phơi nhiễm với trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Trong đó, nhóm ngân hàng quốc doanh (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank), và một số ngân hàng tư nhân chính sách cho vay và trích lập dự phòng rủi ro thận trọng sẽ lđáp ứng tốt với các tiêu chí trên.

]]>