# thu hút FDI – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:37:03 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # thu hút FDI – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Chính sách tốt để mở lối kinh doanh https://doanhnhandautu.com/chinh-sach-tot-de-mo-loi-kinh-doanh/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:11 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2625 Khi bối cảnh kinh tế toàn cầu chưa “vẽ nên được màu sáng”, thì nền kinh tế Việt Nam vẫn được nhiều tổ chức quốc tế dự báo lạc quan về tăng trưởng trong năm 2023. ]]>
Khi bối cảnh kinh tế toàn cầu chưa “vẽ nên được màu sáng”, thì nền kinh tế Việt Nam vẫn được nhiều tổ chức quốc tế dự báo lạc quan về tăng trưởng trong năm 2023.

Chính phủ mới đây công bố vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vào nền kinh tế năm 2023 hơn 700.000 tỷ đồng, tăng khoảng 25% so với kế hoạch năm 2022. Đó chỉ là điều kiện cần cho nền kinh tế Việt Nam, còn điều kiện đủ phải là một hệ sinh thái các chính sách đúng đắn và mang tính chất kiến tạo.

Chính sách tốt để mở lối kinh doanh
LS. Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch LP Group

Những điểm sáng về chính sách

Trong hơn một thập kỷ qua, với hàng loạt chính sách ưu đãi đầu tư về năng lượng, hạ tầng giao thông, tính dụng linh hoạt…, đặc biệt là chính sách tự do hóa thương mại, Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến đầu tư, kinh doanh. Việt Nam vẫn là một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhờ hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện và sự năng động của Chính phủ trong việc tương tác với các nhà đầu tư.

Chính phủ đã và đang trao quyền nhiều hơn cho các địa phương bằng cơ chế tự chủ trong thu hút và tạo môi trường đầu tư tốt. Nhìn vào biến động của Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện, có thể thấy được nỗ lực của chính quyền các tỉnh trong việc thu hút đầu tư và tạo môi trường kinh doanh tại địa phương. Ngày càng nhiều tập đoàn đa quốc gia cam kết và hợp tác chiến lược với các địa phương cấp tỉnh và tất nhiên, Chính phủ ủng hộ điều đó.

Thị trường vốn và tài chính, đặc biệt là chứng khoán và trái phiếu, đã chịu nhiều biến động tiêu cực thời gian qua. Nguyên nhân một phần do lỗ hổng từ cơ chế tạo môi trường cho các sai phạm kinh doanh.

Tuy nhiên, cũng từ đây, nhà làm luật có thời gian và “dữ liệu” để điều chỉnh chính sách và chế tài trong các lĩnh vực liên quan. Điều này song hành với việc Việt Nam quyết tâm cao làm lành mạnh thị trường vốn và bắt đầu có cơ chế cụ thể để bảo vệ nhà đầu tư. Từ đó, không khó để hy vọng trong tương lai gần, Việt Nam sẽ được nâng hạng lên thị trường mới nổi.

Có lẽ, điểm sáng lớn nhất là tính minh bạch trong chính sách kinh doanh và thực thi đang được cải thiện qua từng năm, từng nhiệm kỳ Chính phủ. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra song hành cùng sự phát triển của thế giới công nghệ không cho phép quốc gia nào lạc hậu trong chính sách kinh doanh.

“Nén càng mạnh, bật càng cao”

Nếu vào các trung tâm thương mại tại TP.HCM hay Hà Nội, bạn sẽ nhận thấy, người dân đang tiêu dùng mạnh hơn sau đại dịch. Họ ra đường nhiều hơn, nhưng việc chi tiêu được kiểm soát. Tương tự, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam (đa phần là doanh nghiệp nhỏ và vừa và start-up) lâm vào tình trạng khó khăn chung hiện nay. Doanh nghiệp buộc phải tái cấu trúc và thay đổi liên tục để thích ứng. Giới doanh nhân muốn đầu tư mạnh, nhưng cũng quan sát rất kỹ.

Doanh nhân, doanh nghiệp đang phải áp dụng “Thuyết bán kem” trong bối cảnh hiện nay. Theo đó, bán kem nhất định phải bắt đầu bán vào mùa Đông, vừa kích thích sự tò mò về khẩu vị ăn kem vào mùa Đông, vừa phải nỗ lực chinh phục khách hàng khó tính trong tình trạng phải giảm chi phí để cải thiện dịch vụ và tối ưu tỷ suất sinh lời. Nếu việc bán kem tồn tại được qua mùa Đông, thì sẽ không sợ không có sức cạnh tranh. Hiện là thời điểm doanh nhân Việt chấp nhận thách thức, họ cần vượt qua “mùa Đông lạnh giá” để tạo “sức đề kháng” cho doanh nghiệp và đó cũng là “sức đề kháng” cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn bước ngoặt này.

Thị trường chứng khoán và bất động sản Việt Nam cuối năm 2022 có thể được xem là đáy. Giới đầu tư, đặc biệt nhà đầu tư quốc tế, xem đó là cơ hội khi họ nhìn vào biểu đồ hình sin của nền kinh tế. Ở góc nhìn đó, hãy tự hỏi, chúng ta đã chuẩn bị gì khi mũi tên trong đồ thị hình sin đi lên theo chiều thẳng đứng?

Tiếp tục điểm nhấn “tự do thương mại”

Điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài thâm nhập thị trường Việt Nam hiện nay đã cụ thể, rõ ràng hơn nhiều. Đó là do Việt Nam không chỉ tuân thủ các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương một cách nghiêm túc, mà sự nghiêm túc này còn là nỗ lực của cả hệ thống chính trị để hỗ trợ hoạt động giao thương. Sự năng động, tích cực của phòng thương mại và công nghiệp các nước với vai trò trung gian được Chính phủ lắng nghe để chỉ đạo bộ, ban, ngành thực thi theo đúng các cam kết.

Tiếp tục điểm nhấn “tự do thương mại”Chính phủ cần rà soát và điều chỉnh các chính sách liên quan đến tự do hóa thương mại và thu hút vốn FDI vào các lĩnh vực chiến lược và giao địa phương quản lý.Chính phủ cần rà soát và điều chỉnh các chính sách liên quan đến tự do hóa thương mại và thu hút

Môi trường kinh doanh tại Việt Nam hiện nay được giới phân tích đánh giá rất thân thiện với các nhà đầu tư. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư giữa các quốc gia, giữa các tập đoàn và địa phương, tăng cường hoạt động mở cửa đón giao thương hậu Covid-19. Các hoạt động này đừng để doanh nhân – doanh nghiệp “tự bơi”, mà phải có sự chung sức của các bên.

Thương mại điện tử (e-commerce) đang là chìa khóa mở cánh cửa kinh doanh cho doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa đang chiếm đa số tại Việt Nam. Dù vậy, các nhà làm luật và Chính phủ cần nỗ lực nhiều hơn nữa để hoạt động thương mại điện tử đa quốc gia được phát triển đúng xu hướng. Tương lai của tự do hóa thương mại, e-commerce sẽ đóng một vai trò quan trọng.

Chính sách và thực thi chính sách về kinh doanh

Hiện có nhiều dự thảo luật được đưa ra lấy ý kiến để điều chỉnh, sửa đổi. Từ việc sửa đổi điều luật đến thực thi có độ trễ nhất định, nhưng đây là công việc quan trọng bậc nhất để Việt Nam có một hành lang pháp lý đủ để kiến tạo môi trường kinh doanh tốt.

Thứ nhất, Việt Nam cần có chính sách tín dụng và kế hoạch nhất quán về quản lý thị trường vốn. Chính sách này cần có tầm nhìn trung hạn và dài hạn, chứ không chỉ giải quyết nhu cầu, thách thức trước mắt. Nếu không có chính sách đúng về tín dụng ngân hàng, chúng ta sẽ bị mất thế cạnh tranh.

Thứ hai, Chính phủ cần rà soát và điều chỉnh các chính sách liên quan đến tự do hóa thương mại và thu hút vốn FDI vào các lĩnh vực chiến lược và giao địa phương quản lý.

Thứ ba, Chính phủ và các bộ, ban, ngành nhanh chóng điều chỉnh chính sách hỗ trợ với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất – kinh doanh trực tiếp, bằng chính sách miễn giảm hoặc giãn thời hạn nộp thuế. Việc điều chỉnh chính sách hỗ trợ thuế cho doanh nghiệp không khó khi xác định ưu đãi dựa trên tiền thuế đóng góp vào ngân sách và nhóm ngành kinh doanh cần ưu đãi.

Thứ tư, cơ quan chức năng mạnh tay hơn nữa áp dụng chế tài đối với vi phạm trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Việc xử lý vi phạm và áp dụng chế tài cần thay đổi cho cách làm hiện nay, phải hướng đến mục tiêu kinh tế (thu hồi khoản thất thu hoặc bồi thường), thay vì hạn chế quyền công dân của người vi phạm.

Tóm lại, bức tranh tươi sáng về nền kinh tế không thể dựa vào các nhận định tích cực hay các kế hoạch công bố. Đó phải là các hành động quyết liệt từ Chính phủ và các địa phương, phải lắng nghe và tạo mọi điều kiện có thể để kiến tạo một môi trường đầu tư, kinh doanh cạnh tranh, minh bạch và hợp pháp. Cần nhìn nhận thực tế rằng, chính sách tốt phải là chính sách mang tính kiến tạo và phụng sự, chứ không phải để lấp đầy các khoảng trống của hệ thống tư pháp. Chính phủ cần gia tăng tính cạnh tranh để giữ chân nhà đầu tư hiện hữu, thu hút nhà đầu tư mới bằng thế mạnh chính sách.

]]>
Accor và IHG sẽ mở rộng đầu tư tại Việt Nam https://doanhnhandautu.com/accor-va-ihg-se-mo-rong-dau-tu-tai-viet-nam/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:19 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3205 Đánh giá cao tiềm năng phát triển của ngành khách sạn tại Việt Nam, đại diện của hai tập đoàn khách sạn hàng đầu là Accor và IHG cho biết, họ sẽ tăng gấp đôi số lượng khách sạn mang thương hiệu quốc tế tại Việt Nam trong vòng 5 năm tới.]]>
Đánh giá cao tiềm năng phát triển của ngành khách sạn tại Việt Nam, đại diện của hai tập đoàn khách sạn hàng đầu là Accor và IHG cho biết, họ sẽ tăng gấp đôi số lượng khách sạn mang thương hiệu quốc tế tại Việt Nam trong vòng 5 năm tới.
Với kế hoạch tăng thêm 41 khách sạn và khu nghỉ dưỡng mới, Accor sẽ đạt mức tăng trưởng gấp đôi chỉ trong vòng 5 năm tới.
Với kế hoạch tăng thêm 41 khách sạn và khu nghỉ dưỡng mới, Accor sẽ đạt mức tăng trưởng gấp đôi chỉ trong vòng 5 năm tới.

Accor sẽ mở thêm 41 khách sạn và khu nghỉ dưỡng

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Xavier    Cappelut, Phó tổng giám đốc vận hành của Accor Việt Nam tiết lộ: “Chúng tôi dự kiến đón thêm 41 khách sạn và khu nghỉ dưỡng trong chuỗi của Accor tại Việt Nam trong vòng 5 năm tới”.

Lý giải quyết định mở rộng này, ông Xavier Cappelut cho biết, thị trường khách sạn đón lượng khách nội địa rất tốt từ nửa đầu năm do các quy định về giãn cách được nới lỏng và cao điểm mùa nghỉ hè. Nhu cầu gia tăng trên cả phân khúc nghỉ dưỡng và khách doanh nhân.

Đối với phân khúc khách quốc tế, luồng dịch chuyển đến chủ yếu từ các thị trường gần trong khu vực và Australia. Singapore mang đến một lượng khách đáng chú ý từ khoảng giữa năm. Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ cũng khá mạnh ở phân khúc khách doanh nghiệp.

“Các doanh nghiệp đã hoạt động sôi động trở lại, nên cả TP.HCM và Hà Nội đều bắt đầu đón khách doanh nhân tăng kể từ tháng 8/2022. Nhu cầu họp, hội thảo, khen thưởng và tổ chức sự kiện (MICE) đã khởi động lại từ đầu quý IV/2022, tuy với số lượng không nhiều như trước đại dịch, nhưng dần có xu hướng gia tăng”, ông Xavier Cappelut cho biết.

Theo ông Xavier Cappelut, một trong những chiến lược quan trọng nhất của Accor Việt Nam là tập trung vào phân khúc khách nội địa. Tiếp theo đó, sẽ đẩy mạnh giao dịch trực tiếp không qua trung gian bằng các chương trình khuyến mãi có trọng tâm trong năm tới.

“Accor sẽ tập trung vào việc phát triển các chương trình khách hàng thân thiết toàn cầu, cũng như chương trình tổ chức hội nghị của chúng tôi. Ứng dụng di động, trang web và trang Facebook fanpage của chúng tôi sẽ có sẵn ngôn ngữ tiếng Việt để giúp khách quốc tế biết đến Việt Nam và mở rộng mạng lưới khách tại Việt Nam”, ông Xavier Cappelut nói.

Dự báo về xu hướng khách quốc tế đến Việt Nam năm 2023, ông Xavier Cappelut cho biết, thị trường khách xa từ Bắc và Nam Mỹ có thể sẽ gia tăng. “Chúng tôi cũng mong chờ sự gia tăng đến từ thị trường Ấn Độ, Hàn Quốc để đạt mức hồi phục tương đương trước đại dịch vào giữa năm 2023. Thị trường Trung Quốc có thể sẽ sớm hồi phục. Thị trường khách Nhật Bản sẽ bắt đầu đón du khách đến nghỉ dưỡng từ khoảng giữa năm 2023. Về du lịch MICE, chúng tôi cho rằng, phân khúc này sẽ tăng trưởng mỗi tháng và trở nên sôi động tại Việt Nam từ tháng 4/2023”.

Bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 1992, Accor đang sở hữu 40 khách sạn và khu nghỉ dưỡng với nhiều thương hiệu, gồm Sofitel, MGallery, Pullman, Novotel, Mövenpick, Mercure, Ibis. Như vậy, với kế hoạch tăng thêm 41 khách sạn và khu nghỉ dưỡng mới, Accor sẽ đạt mức tăng trưởng gấp đôi chỉ trong vòng 5 năm tới. Đây là con số khá ấn tượng sau đại dịch.

IHG sẽ mở thêm 22 khách sạn và khu nghỉ dưỡng mới

Có mặt từ năm 2007, chuỗi khách sạn và khu nghỉ dưỡng IHG hiện bao gồm 15 khách sạn và khu nghỉ dưỡng. IHG sở hữu các thương hiệu như InterContinental, Crowne Plaza và Holiday Inn.

Ông Rajit Sukumaran, Giám đốc điều hành của IHG khu vực Đông Nam Á và Hàn Quốc cho biết, Tập đoàn dự kiến đón thêm 22 khách sạn và khu nghỉ dưỡng tại Việt Nam trong hệ thống, nâng tổng số lên 37 thành viên trong 5 năm tới.

“Việt Nam là một thị trường quan trọng của IHG và chúng tôi đầu tư dài hạn vào đây. Chúng tôi đang xây dựng một hệ sinh thái vững chắc, bao gồm các nhân sự dày dặn kinh nghiệm ở trong nước và sự hợp tác bền vững để hiện thực hóa điều này”, ông Rajit Sukumaran nói.

Theo ông Rajit Sukumaran, tỷ lệ lấp kín phòng tại Việt Nam đang gia tăng đều đặn. Ông cũng cho rằng, khách nội địa đang là động lực chính của các khách sạn và khu nghỉ dưỡng trong chuỗi IHG.

“Thời gian lưu trú trung bình là 3 đêm. Ở các điểm đến như Đà Nẵng và Phú Quốc, khách thường đi theo nhóm gia đình đa thế hệ hoặc một vài gia đình đi cùng với nhau, trong khi tại Hà Nội và TP.HCM, chúng tôi thấy khách doanh nhân đã quay trở lại. Ngoài ra, còn có các chương trình tiệc cưới đặc biệt”, Giám đốc điều hành của IHG khu vực Đông Nam Á và Hàn Quốc nói.

Theo ông Rajit Sukumaran, một trở ngại cho sự phục hồi của ngành khách sạn là số lượng chuyến bay sau đại dịch chưa trở lại mức như trước đây. Các chuyến bay thẳng có tác dụng thúc đẩy khách nghỉ dưỡng và khách MICE đến từ các nước ASEAN, Ấn Độ, thị trường châu Âu, Mỹ và Australia. IHG đã làm việc chặt chẽ với Tổng cục Du lịch Việt Nam và các hiệp hội thương mại, Vietnam Airlines để giải quyết vấn đề này, cũng như hợp lực để cùng thúc đẩy thị trường.

Dự kiến trong năm 2023, IHG sẽ ra mắt thêm các thương hiệu mới như voco Hotels, Vignette Collection, Hotel Indigo và Holiday Inn Express tại Việt Nam.

IHG có mối quan hệ đối tác truyền thống với các chủ đầu tư nổi bật như BIM Group và Sun Hospitality. Tập đoàn này cho biết đã bắt đầu hợp tác thêm với Công ty TNHH Du lịch Sinh thái Cồn Bắp của BCG Land.

]]>
Thách thức mới trong thu hút FDI vào Đông Nam bộ https://doanhnhandautu.com/thach-thuc-moi-trong-thu-hut-fdi-vao-dong-nam-bo/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:37 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3394 Vùng Đông Nam bộ vẫn đứng đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng các thách thức mới ngày càng tăng.]]>
Vùng Đông Nam bộ vẫn đứng đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng các thách thức mới ngày càng tăng.
Thách thức mới trong thu hút FDI vào Đông Nam bộ

Thách thức từ quỹ đất hẹp dần

Kết thúc năm 2022, bất chấp những dự báo ảm đạm về triển vọng kinh tế thế giới, vốn FDI vẫn chảy mạnh vào vùng Đông Nam bộ, khi 2 vị trí dẫn đầu cả nước lần lượt thuộc về TP.HCM (dẫn đầu, thu hút 3,94 tỷ USD) và Bình Dương (đứng ở vị trí thứ 2, với 3,14 tỷ USD). Các tỉnh còn lại như Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước dù có tăng so với năm trước, nhưng ở mức khiêm tốn.

Dẫu vậy, theo nhận định của các nhà đầu tư, thách thức thu hút FDI của vùng Đông Nam bộ sẽ lớn dần trong năm 2023. Trong đó, thách thức đầu tiên đến từ quỹ đất phát triển công nghiệp đang bị thu hẹp đáng kể.

Ông Đào Xuân Đức, Chủ tịch Hiệp hội Các doanh nghiệp khu công nghiệp TP.HCM cho biết, theo báo cáo của Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp TP.HCM (Hepza), Thành phố chỉ có 46 ha đất “sạch” để cho nhà đầu tư thuê năm 2023. Thế nhưng, số đất này lại nằm rải rác ở nhiều quận, huyện, chứ không phải một khu.

Ông Đức cũng cho biết, TP.HCM vẫn còn quỹ đất, như Khu công nghiệp (KCN) Hiệp Phước còn 320 ha; KCN Tây Bắc Củ Chi còn hơn 100 ha, song chưa ký được hợp đồng thuê đất với Nhà nước.

Theo ông Đức, làn sóng chuyển dịch đầu tư từ các nước sang Việt Nam đang diễn ra, nhưng với quỹ đất hạn hẹp, TP.HCM không thể đón được nhà đầu tư lớn.

Tương tự, Đồng Nai cũng đang gặp khó về quỹ đất trong thu hút FDI. Ông Phạm Văn Cường, Phó trưởng ban phụ trách Ban Quản lý các KCN tỉnh Đồng Nai cho biết, các KCN của tỉnh địa phương này hầu như đã lấp đầy. Trong khi đó, 5 KCN mới, với diện tích 7.104 ha, dù đã đưa vào quy hoạch, nhưng đến nay vẫn chưa thể xây dựng. Do thiếu quỹ đất công nghiệp, nên 2 năm qua, Đồng Nai bỏ lỡ cơ hội thu hút các dự án có vốn đầu tư lên đến hàng tỷ USD.

Trong số các tỉnh vùng Đông Nam bộ, thì Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu có lợi thế hơn về quỹ đất, bởi có nhiều KCN diện tích lớn để thu hút đầu tư. Chẳng hạn, Bình Dương thu hút được Tập đoàn Lego đầu tư nhà máy trên diện tích 44 ha với vốn đầu tư 1,3 tỷ USD. Dù có diện tích KCN lớn, nhưng thách thức cho các tỉnh này là các KCN nằm rất xa cảng biển, sân bay, hệ thống hạ tầng kết nối chưa đầu tư đồng bộ, nên doanh nghiệp FDI không hào hứng đầu tư.

Thuận lợi nhất trong các tỉnh Đông Nam bộ có lẽ là Bà Rịa – Vũng Tàu, vì tỉnh này vừa có diện tích KCN lớn, vừa có cảng biển nước sâu và nằm sát sân bay Long Thành (dự kiến khai thác năm 2025).

Hiện nay, các tỉnh trong vùng Đông Nam bộ đang đẩy mạnh xây dựng nhiều tuyến đường kết nối vùng, như đường Vành đai 3 (TP.HCM), cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, một số tuyến quốc lộ. Dự kiến đến năm 2025 các dự án này mới hoàn thành đưa vào khai thác. Như vậy, sau năm 2025, thách thức về hạ tầng kết nối của vùng Đông Nam bộ mới được giải quyết.

Thủ tục hành chính, nhân lực “cản” bước nhà đầu tư

Thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp FDI liên tục phàn nàn về thủ tục đầu tư. Đặc biệt, tại TP.HCM, doanh nghiệp bức xúc về việc phải đi “nhiều cửa” qua các sở, ngành để xin thủ tục.

Sau một thời gian dài doanh nghiệp nêu bức xúc, tháng 10/2022, chính quyền TP.HCM mới tái lập cơ chế một cửa tại các KCN và ủy quyền cho Hepza thẩm định, phê duyệt, cấp, đổi giấy phép môi trường đối với các dự án đầu tư. Dù vậy, doanh nghiệp cho rằng, cần phải cấp phép cơ chế một cửa tại KCN với tất cả các thủ tục, chứ chỉ cấp phép về môi trường như hiện nay thì chưa giải quyết được vấn đề.

Đến tháng 12/2022, TP.HCM mới chính thức cho doanh nghiệp đánh giá năng lực điều hành của các sở, ngành và quận, huyện để tiếp tục cải cách các vấn đề yếu kém trong bộ máy chính quyền. Bà Mary Tarnowka, Giám đốc điều hành Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AmCham) tại Việt Nam cho rằng, thách thức lớn nhất đối với doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư tại TP.HCM là vấn đề thủ tục hành chính. Bà kỳ vọng, việc đánh giá các sở, ngành sẽ thúc đẩy nhanh hơn thời gian làm thủ tục cho doanh nghiệp.

Bên cạnh thủ tục, thì lao động cũng là vấn đề nổi cộm nhất hiện nay của các tỉnh Đông Nam bộ. Mặc dù nhiều tỉnh trong vùng có các trường đại học, cao đẳng, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu về nhân lực của doanh nghiệp. Lao động phổ thông hiện cũng thiếu trầm trọng, nhiều doanh nghiệp FDI không tuyển được lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất.

Ngoài ra, từ đầu năm 2023, nhiều tỉnh, thành phố tăng giá thuê đất, khiến doanh nghiệp FDI chùn bước. Đó là chưa kể, năm 2022, mức đóng bảo hiểm xã hội cho lao động nước ngoài tăng lên, khiến doanh nghiệp e ngại.

]]>
Vốn đầu tư nước ngoài giảm, nhưng vẫn có nhiều tín hiệu tích cực https://doanhnhandautu.com/von-dau-tu-nuoc-ngoai-giam-nhung-van-co-nhieu-tin-hieu-tich-cuc/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:11 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3678 “Năm 2022, vốn FDI đăng ký giảm 11% so với năm 2021 đã thể hiện rõ khó khăn chung trong ngắn hạn của kinh tế thế giới cũng như Việt Nam trước nhiều rủi ro và biến động, nhưng vẫn có nhiều tín hiệu tích cực”.]]>
“Năm 2022, vốn FDI đăng ký giảm 11% so với năm 2021 đã thể hiện rõ khó khăn chung trong ngắn hạn của kinh tế thế giới cũng như Việt Nam trước nhiều rủi ro và biến động, nhưng vẫn có nhiều tín hiệu tích cực”.

Đó là nhận định của bà Phí Hương Nga, Phó vụ trưởng phụ trách Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng (Tổng cục Thống kê).

bà Phí Hương Nga, Phó vụ trưởng phụ trách Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng (Tổng cục Thống
Bà Phí Hương Nga, Phó vụ trưởng phụ trách Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng (Tổng cục Thống kê).

Năm 2022, thu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm khá mạnh so với năm 2021. Thưa bà, liệu có phải do xu hướng đầu tư ra nước ngoài toàn cầu bị suy giảm?

Tổng vốn đầu tư nước ngoài năm 2022, bao gồm vốn FDI đăng ký cấp mới, vốn điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần (vốn gián tiếp) đạt 27,72 tỷ USD, chỉ bằng 89% so với năm 2021. Mức sụt giảm này đã thể hiện rõ khó khăn chung trong ngắn hạn của kinh tế thế giới cũng như của Việt Nam trước nhiều rủi ro và biến động trong năm 2022.

Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia phát triển có dấu hiệu chững lại, mặc dù đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát. Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, như xung đột chính trị tại một số quốc gia trên thế giới; áp lực lạm phát; nhu cầu tiêu dùng hàng hoá toàn cầu có xu hướng giảm; chính sách tài chính toàn cầu thắt chặt; đứt gãy chuỗi cung ứng chưa được khắc phục hoàn toàn.

Những yếu tố trên gây áp lực làm giảm đáng kể dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2022, ảnh hưởng tiêu cực đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của các nền kinh tế lớn, đặc biệt là các đối tác đầu tư của Việt Nam, tác động làm giảm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài giảm, vì sao bà lại cho là vẫn có nhiều tín hiệu tích cực?

Tín hiệu tích cực là, trong tổng vốn đăng ký, cấu phần vốn đầu tư điều chỉnh lại tăng mạnh cả về vốn đầu tư cũng như số lượt dự án điều chỉnh trong năm 2022: tăng 12,2% vốn và tăng 12,4% số lượt điều chỉnh so với năm 2021.

Mức tăng trên đã khẳng định niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài đối với chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư của Việt Nam an toàn, nên đã đưa ra các quyết định đầu tư mở rộng dự án hiện hữu tại Việt Nam. Nhiều dự án sản xuất, chế tạo sản phẩm điện tử, công nghệ cao được tăng vốn với quy mô lớn trong năm 2022, như Samsung Electro-mechanics Việt Nam (Thái Nguyên) tăng 920 triệu USD; Công ty TNHH Samsung HCMC CE (TP.HCM) tăng trên 841 triệu USD; Nhà máy Chế tạo điện tử, phương tiện thiết bị mạng và sản phẩm âm thanh đa phương tiện (tại Bắc Ninh, Nghệ An và Hải Phòng) tăng lần lượt gần 306 triệu USD, 260 triệu USD và 127 triệu USD.

Tôi cũng muốn nói thêm rằng, năm 2021, thu hút vốn FDI rất ấn tượng vì có Dự án Nhà máy Điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD và Dự án Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD). Nếu loại trừ yếu tố đột biến trị giá 4,41 tỷ USD của 2 dự án này, thì tổng vốn FDI đăng ký năm 2022 vẫn tăng 3,64% so với năm 2021, trong đó, vốn đăng ký cấp mới tăng 14,9%, vốn điều chỉnh tăng trên 12%. Tuy nhiên, vốn đầu tư gián tiếp (góp vốn, mua cổ phần) của nhà đầu tư nước ngoài giảm hơn 25%.

Theo bà, vốn đầu tư gián tiếp giảm mạnh, giảm tới trên 25%, có nguyên nhân từ đâu?

Đầu tư nước ngoài là nguồn lực rất quan trọng đóng góp cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi đại dịch Covid-19 xảy ra trên thế giới từ đầu năm 2020 đến nay đã ảnh hưởng nặng nề đến phát triển kinh tế của nhiều quốc gia và Việt Nam, đặc biệt, trong năm 2020 và 2021, ảnh hưởng nhất định đến thu hút dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam, nhất là vốn đầu tư gián tiếp.

Không phải năm 2022, mà kể từ năm 2020, nguồn vốn gián tiếp bắt đầu xu hướng giảm cả về số lượt góp vốn lẫn giá trị vốn góp. Nguyên nhân chính là đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến thị trường mua bán – sáp nhập (M&A) trên thế giới nói chung và cả Việt Nam nói riêng. Bởi đặc thù của M&A cần có sự tham gia trực tiếp tìm hiểu, nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp của nhà đầu tư. Việc hạn chế di chuyển trong bối cảnh đại dịch đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.

Mặc dù giảm cả về số lượt góp vốn, mua cổ phần cũng như giá trị vốn góp, song mức độ giảm vốn góp đang được cải thiện dần: năm 2021 và 2022 mức giảm đã cải thiện nhiều so với năm 2020 (năm 2020 giảm gần 52%).

Bước sang năm 2022, mặc dù đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát, nhưng kinh tế thế giới vẫn còn nhiều biến động, khó khăn đã làm chững lại hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nền kinh tế lớn, tác động làm giảm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2022, đặc biệt những tháng cuối năm 2022. Đầu tư gián tiếp tiếp tục xu hướng giảm bởi tâm lý của nhà đầu tư muốn bảo toàn giá trị đồng vốn trong bối cảnh giá cả và lạm phát trên thế giới tăng cao, nhiều quốc gia thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.

Liệu có phải do vẫn còn nhiều ngành nghề, lĩnh vực hạn chế đầu tư gián tiếp nước ngoài khiến nguồn vốn này vào Việt Nam bị chững lại, thưa bà?

Một số chuyên gia cho rằng, hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài giảm mạnh và khó có thể tăng trở lại vì còn nhiều ngành nghề, lĩnh vực hạn chế đầu tư nước ngoài nên đã nhiều lần đề nghị nới room.

Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, ý kiến trên chưa có căn cứ xác thực, vì số liệu thống kê về hoạt động góp vốn, mua cổ phần từ năm 2016 đến 2022 cho thấy, trước khi đại dịch Covid-19 xảy ra, tức từ năm 2019 trở về trước thì giá trị góp vốn, mua cổ phần tăng trưởng mạnh qua các năm. Cụ thể, năm 2017 tăng hơn 45%, năm 2018 tăng gần 159%, năm 2019 tăng 56,4%. Vốn đầu tư gián tiếp chỉ giảm mạnh từ năm 2020 đến nay, do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, cũng như xung đột địa chính trị đã ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới, tác động tiêu cực đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là đầu tư gián tiếp.

Theo bà, khi nào nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ phục hồi trở lại?

Tôi cho rằng, trong ngắn hạn, ít nhất đến hết nửa đầu năm 2023, xu hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tại các nền kinh tế lớn vẫn tiếp tục đà suy giảm, trước khi kinh tế thế giới có thể phục hồi đà tăng trưởng trở lại. Khi đó, vốn FDI vào Việt Nam mới có thể phục hồi đà tăng trưởng.

Đối với nguồn vốn gián tiếp, cần 1-2 năm nữa mới có thể phục hồi. Việc phục hồi nguồn vốn này phụ thuộc vào việc lạm phát, xung đột chính trị, cuộc chiến tại Ukraine, suy giảm kinh tế thế giới… khi nào được xử lý. Thông thường, tất cả những vấn đề bất ổn về kinh tế, tài chính, chính trị, chuỗi cung ứng, khan hiếm nhiên liệu, chiến tranh… cũng đều tìm thấy lối thoát khả dĩ nhất. Khi đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh toàn cầu phục hồi, nguồn vốn đầu tư gián tiếp phục hồi mạnh mẽ trở lại và Việt Nam vẫn luôn trở thành thỏi nam châm hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần.

]]>
Gần 1,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam https://doanhnhandautu.com/gan-17-ty-usd-von-dau-tu-nuoc-ngoai-dang-ky-vao-viet-nam/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:12 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5219 Đáng chú ý, trong tháng đầu năm 2023, vốn đăng ký mới gấp 3,1 lần so với cùng kỳ năm trước, cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam.]]>
Đáng chú ý, trong tháng đầu năm 2023, vốn đăng ký mới gấp 3,1 lần so với cùng kỳ năm trước, cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam.

Số liệu tổng hợp từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/01/2023 đạt 1,69 tỷ USD, giảm 19,8% so với cùng kỳ năm trước.

Trong số này, đáng chú ý, có 153 dự án đăng ký mới, với tổng vốn đăng ký đạt 1,2 tỷ USD, tăng 48,5% về số dự án và gấp 3,1 lần về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam.

Bên cạnh đó, có 89 lượt dự án đăng ký điều chỉnh, với tổng vốn tăng thêm đạt 306,3 triệu USD, giảm 75,9% so với cùng kỳ năm trước.

Ngoài ra, còn có 204 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, với tổng vốn 174,1 triệu USD, giảm 60,7% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 78 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp, với giá trị góp vốn là 150,3 triệu USD và 126 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ, với giá trị 23,8 triệu USD.

Gần 1,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu năm mới 2023, Bắc Giang đã trao chứng nhận đăng ký đầu tư cho 2 dự án quy mô lớn.

Do tháng 1/2023 là tháng Tết, với hai kỳ nghỉ Tết kéo dài, nên việc sụt giảm vốn đầu tư nước ngoài đăng ký, hay thậm chí là giải ngân, chưa phản ánh được xu thế chung của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2023. Điều này chỉ mang tính thời điểm.

Số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam tháng 01/2023, ước đạt 1,35 tỷ USD, giảm 16,3% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1,05 tỷ USD, chiếm 77,6% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 122,7 triệu USD, chiếm 9,1%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 81,7 triệu USD, chiếm 6%.

Về đăng ký mới, Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất, với số vốn đăng ký đạt 651,9 triệu USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký cấp mới.

Trong khi đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 351,2 triệu USD, chiếm 29,1%; các ngành còn lại đạt 201,9 triệu USD, chiếm 16,8%.

Nếu tính cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước, thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 660,8 triệu USD, chiếm 43,7% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 606,4 triệu USD, chiếm 40,1%; các ngành còn lại đạt 244 triệu USD, chiếm 16,2%.

Trong khi đó, đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 112,3 triệu USD, chiếm 64,5% giá trị góp vốn; hoạt động chuyên môn, khoa học – công nghệ đạt 32,1 triệu USD, chiếm 18,4%; ngành còn lại 29,7 triệu USD, chiếm 17,1%.

]]>
Quảng Ninh dự kiến thu hút 18 dự án FDI đầu tư vào các KCN trong năm 2023 https://doanhnhandautu.com/quang-ninh-du-kien-thu-hut-18-du-an-fdi-dau-tu-vao-cac-kcn-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:30 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5750 Theo nắm bắt từ các chủ đầu tư hạ tầng KCN đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, dự kiến trong năm 2023 này sẽ có khoảng 18 dự án FDI đầu tư vào tỉnh.]]>
Theo nắm bắt từ các chủ đầu tư hạ tầng KCN đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, dự kiến trong năm 2023 này sẽ có khoảng 18 dự án FDI đầu tư vào tỉnh.

Mới đây, UBND tỉnh Quảng Ninh đã có cuộc họp kiểm điểm tiến độ thực hiện kế hoạch tổng thể thu hút dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các Khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn tỉnh do ông Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì.

Trên cơ sở kết quả rà soát và đăng ký của các đơn vị chủ đầu tư hạ tầng KCN, danh mục dự án FDI dự kiến thu hút năm 2023 gồm 18 dự án. Trong đó, 16 dự án đầu tư mới và 2 dự án điều chỉnh tăng vốn, với tổng nguồn vốn đầu tư gần 1,2 tỷ USD, tăng trên 10% chỉ tiêu kịch bản tăng trưởng kinh tế GRDP của tỉnh năm 2023 đã đề ra.

Ông Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo tại cuộc họp.
Ông Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo tại cuộc họp.

Cụ thể, tại thị xã Quảng Yên gồm: KCN Bắc Tiền Phong với 4 dự án; KCN Sông Khoai là 6 dự án; KCN Đông Mai là 3 dự án, tất cả đều là các dự án mới. Tại TP. Móng Cái, KCN Hải Yên dự kiến thu hút 1 dự án mới và tại huyện Hải Hà, KCN Texhong dự kiến thu hút 2 dự án mới và điều chỉnh tăng vốn cho 2 dự án.

Hiện tại, các dự án dự kiến thu hút đầu tư tại các KCN như Bắc Tiền Phong, Đông Mai, Hải Yên cơ bản đủ điều kiện thẩm định, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Các dự án còn lại gặp một số khó khăn liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, thiếu nguồn vật liệu san lấp mặt bằng để đầu tư hạ tầng kỹ thuật …

ông Nguyễn Văn Nhân, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đô thị Amata Hạ Long
Ông Nguyễn Văn Nhân, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đô thị Amata Hạ Long – Chủ đầu tư hạ tầng KCN Sông Khoai thông tin về tiến độ thực hiện đầu tư hạ tầng và kết quả thu hút đầu tư thứ cấp.

Thu hút đầu tư các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm thực hiện chủ đề công tác năm 2023 của tỉnh Quảng Ninh là “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chất lượng đời sống Nhân dân”. Công tác thu hút đầu tư cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN rất được tỉnh Quảng Ninh quan tâm.

Quảng Ninh xác định dòng vốn FDI là một trong những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của tỉnh. Trong ảnh là nhà Nhà máy của Foxconn tại KCN Đông Mai.
Quảng Ninh xác định dòng vốn FDI là một trong những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của tỉnh. Trong ảnh là nhà máy của Foxconn tại KCN Đông Mai.

Tại cuộc họp, ông Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh đã thống nhất về kế hoạch thu hút đầu tư các dự án FDI 2023 với tổng nguồn vốn gần 1,2 tỷ USD vào 5 KCN trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, yêu cầu Ban Quản lý Khu kinh tế lên kế hoạch chi tiết tiến độ cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư từng dự án theo từng quý, báo cáo UBND tỉnh trước ngày 5/2.

Về các kiến nghị, đề xuất cụ thể của chủ đầu tư hạ tầng các KCN với từng dự án thu hút đầu tư tại thị xã Quảng Yên, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tập trung phối hợp với địa phương hoàn thiện các thủ tục, lên phương án giải phóng mặt bằng cho các dự án này trước 15/2.

Đối với khó khăn về nguồn vật liệu san lấp, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm hỗ trợ các chủ đầu tư hạ tầng KCN trên địa bàn thị xã Quảng Yên làm việc với Tập đoàn Công nghiệp, Than – Khoáng sản Việt Nam để sử dụng đất đá thải mỏ thay thế, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế tuần hoàn của tỉnh, hạn chế sử dụng đất đồi tự nhiên làm vật liệu san lấp mặt bằng. Đối với chủ đầu tư hạ tầng các KCN khác, cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hạ tầng theo đúng yêu cầu, chất lượng, tiến độ cam kết để tạo sức hấp dẫn, thu hút có chọn lọc các nhà đầu tư thứ cấp.

]]>
Áp lực cạnh tranh thu hút FDI ngày một lớn https://doanhnhandautu.com/ap-luc-canh-tranh-thu-hut-fdi-ngay-mot-lon/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:49 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5857 Dù nhiều dự báo cho thấy, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) của Việt Nam trong năm 2023 sẽ tích cực hơn, nhưng thực tế, áp lực cạnh tranh cũng ngày một lớn.]]>
Dù nhiều dự báo cho thấy, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) của Việt Nam trong năm 2023 sẽ tích cực hơn, nhưng thực tế, áp lực cạnh tranh cũng ngày một lớn.
Áp lực cạnh tranh thu hút FDI ngày một lớn
Dây chuyền sản xuất của Foxconn tại Bắc Ninh. Ảnh: Đức Thanh

Tín hiệu vui đầu năm

Gần 1,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam trong tháng đầu năm 2023. Tuy con số này giảm 19,8% so với cùng kỳ năm trước và một phần nào đó có thể được lý giải bằng 2 kỳ nghỉ Tết Dương lịch và Âm lịch kéo dài, nhưng điều đáng mừng là vốn đầu tư mới đã tăng mạnh cả về số dự án và số vốn đăng ký.

Cụ thể, đã có 153 dự án đăng ký mới, tổng vốn đăng ký đạt 1,2 tỷ USD trong tháng 1/2023. Với mức tăng 48,5% về số dự án và với việc một số dự án lớn hàng trăm triệu USD được đăng ký mới, tổng vốn đầu tư đăng ký mới trong tháng đầu năm đã tăng gấp hơn 3,1 lần so với cùng kỳ năm 2022.

Không chỉ là vốn đăng ký mới, vốn đầu tư điều chỉnh tuy giảm tương đối lớn (giảm 75,9%, đạt 306,3 triệu USD), do không có nhiều dự án điều chỉnh vốn lớn, thậm chí chỉ có 1 dự án có vốn đầu tư điều chỉnh trên 50 triệu USD, song số lượt dự án điều chỉnh vốn vẫn tăng 25,4% so với cùng kỳ.

Ngược lại, tháng 1 năm ngoái, có nhiều dự án điều chỉnh vốn có quy mô vốn lớn trên 50 triệu USD. Chỉ riêng các dự án này đã chiếm tới 78,2% tổng vốn đăng ký đầu tư điều chỉnh của tháng 1/2022.

“Điều này cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng và đưa ra các quyết định mở rộng dự án tại Việt Nam”, ông Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nói.

Sự tin tưởng cũng thể hiện ở các dự án được cấp chứng nhận đăng ký đầu tư hay ký biên bản ghi nhớ (MOU) ngay từ tháng đầu năm. Điển hình là Dự án Nhà máy Công nghệ chính xác Fulian do nhà đầu tư Ingrasys Pte.Ltd (Singapore) triển khai tại Bắc Giang. Với tổng vốn đăng ký 621 triệu USD, đây chính là dự án đầu tư nước ngoài có vốn đăng ký lớn nhất kể từ đầu năm tới nay, góp phần quan trọng đưa vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.

Ngoài ra, ngay trong tháng đầu của năm 2023, Bắc Giang đã trao MOU cho một loạt dự án. Chẳng hạn, Dự án Sản xuất, lắp ráp xe máy điện của Tập đoàn Yadea, với tổng vốn đầu tư 100 triệu USD, sẽ xây dựng nhà máy trên diện tích khoảng 23,3 ha bắt đầu từ quý II/2023. Hay Dự án Sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời Hainan Longi Green Energy Technology Company Limited, quy mô khoảng 140 triệu USD…

Tuy mới là tháng đầu năm, song dựa trên tiềm năng về thị trường và các dự án đã ký MOU, cũng như đang chuẩn bị các thủ tục đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài dự báo, năm 2023, Việt Nam có thể thu hút 36-38 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng khoảng 30-37% so với năm 2022.

Việc Trung Quốc mở cửa trở lại nền kinh tế cũng được cho là sẽ tác động tích cực tới thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ông Đỗ Văn Sử, Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài từng chia sẻ rằng, khi Trung Quốc mở cửa trở lại, sự dịch chuyển vốn đầu tư của Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… khỏi Trung Quốc sẽ được đẩy nhanh hơn. Sự dịch chuyển này sẽ được đẩy nhanh đến năm 2025 và khi đó Việt Nam sẽ là một điểm đến đầu tư được ưu tiên lựa chọn.

Áp lực cạnh tranh

Cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam là không nhỏ, nhưng thực tế, áp lực cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt hơn, mà nếu không có sự chuẩn bị kịp thời và tiếp tục cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, Việt Nam có thể bị… hụt hơi.

Trong báo cáo về tình hình kinh tế – xã hội trình bày tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 1/2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đầu tư toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn do các điều kiện tài chính thắt chặt hơn và lo ngại về suy thoái toàn cầu. Lãi suất tại Mỹ tăng cùng với USD tăng giá mạnh đã làm tăng chi phí tài chính. Bên cạnh đó, các điều kiện tài chính thắt chặt và triển vọng kinh tế không chắc chắn cũng làm giảm động lực của các nhà đầu tư.

Tuy vậy, trong bối cảnh này, khu vực Đông Nam Á đang được hưởng lợi từ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng từ Trung Quốc, do căng thẳng thương mại Mỹ – Trung. Sự dịch chuyển chuỗi cung ứng cũng đi kèm với dòng vốn đầu tư, dẫn đến sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khối các nước ASEAN khi các doanh nghiệp thành lập nhà máy sản xuất, cơ sở kho bãi, mạng lưới phân phối và các cơ sở khác tại khu vực.

Trong nguy có cơ, song quan trọng là, Việt Nam có tận dụng được cơ hội này hay không?

Một báo cáo vừa được phía Indonesia công bố cho biết, nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á này đã thu hút được 45,6 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2022, tăng 44,2% so với năm 2021. Đây là mức tăng trưởng đầu tư nước ngoài cao nhất thế giới vào năm ngoái. Nên nhớ, đây là số vốn giải ngân và chiếm 54,2% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Indonesia trong năm 2022.

Trong khi đó, Trung Quốc – mặc dù vẫn đóng cửa nền kinh tế – nhưng thu hút được một lượng vốn “khủng”. Chỉ trong 10 tháng năm 2022, Trung Quốc đã thu hút được gần 1.090 tỷ nhân dân tệ, tương đương 140 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2021. Thậm chí, nếu tính theo USD, dòng vốn đầu tư này còn tăng 17,4% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 168,34 tỷ USD.

Khi Trung Quốc mở cửa trở lại, có thể dòng vốn đầu tư sẽ dịch chuyển khỏi nền kinh tế này, nhưng đây cũng sẽ là “thỏi nam châm” hút đầu tư nước ngoài. Ở khu vực châu Á, thậm chí là trên toàn cầu, Trung Quốc vẫn là địa điểm đầu tư và sản xuất hấp dẫn. “Ở khu vực, Trung Quốc vẫn là điểm đến đầu tư hàng đầu, do vậy, khi họ mở cửa, vốn sẽ chảy vào thị trường này, hạn chế vào Việt Nam và các nền kinh tế khác trong khu vực”, ông Đỗ Văn Sử cũng đã nói như vậy.

Trong khi đó, Indonesia thực sự là một “đối thủ” đáng gờm với Việt Nam, khi những năm gần đây đã tung ra nhiều chính sách mới để cạnh tranh đón dòng vốn đầu tư dịch chuyển. Chưa kể, trong khu vực, Thái Lan cũng là một địa điểm đầu tư hấp dẫn…

Khi áp lực cạnh tranh lớn, Việt Nam buộc phải “nhanh chân” hơn trong cuộc đua thu hút đầu tư nước ngoài!

Trong một báo cáo vừa được công bố cách đây ít ngày, Ngân hàng HSBC đã có những nhận định về cơ hội đón dòng vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam khi Trung Quốc mở cửa nền kinh tế trở lại. Không chỉ là vốn từ Trung Quốc đại lục, mà còn là sự dịch chuyển từ các nhà sản xuất khác. HSBC đã dẫn những cái tên như Foxconn, Luxshare… để minh chứng cho nhận định của mình.
]]>
Đánh giá GRDP bình quân đầu người của các địa phương https://doanhnhandautu.com/danh-gia-grdp-binh-quan-dau-nguoi-cua-cac-dia-phuong/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:38 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5978 Theo ước tính sơ bộ, GDP bình quân đầu người của cả nước năm 2022 đạt 4.110 USD. Trong đó, chỉ có 13 địa phương có GRDP lớn hơn mức bình quân cả nước.]]>
Theo ước tính sơ bộ, GDP bình quân đầu người của cả nước năm 2022 đạt 4.110 USD. Trong đó, chỉ có 13 địa phương có GRDP lớn hơn mức bình quân cả nước.

Có thể chia các địa bàn trong cả nước theo 4 mức GRDP bình quân đầu người.

Nhóm cao có mức từ 4.000 USD trở lên, gồm 13 tỉnh/thành phố. Nhóm này có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký lũy kế của các dự án còn hiệu lực đạt cao. TP.HCM đứng thứ nhất với 55,12 tỷ USD. Tiếp đến là Bình Dương với 39,74 tỷ USD; Hà Nội 38,66 tỷ USD; Đồng Nai 35,08 tỷ USD; Bà Rịa – Vũng Tàu 33,34 tỷ USD; Hải Phòng 25,54 tỷ USD; Bắc Ninh 24,67 tỷ USD; Vĩnh Phúc 6,76 tỷ USD; Quảng Ninh 10,13 tỷ USD; Thái Nguyên 11,38 tỷ USD; Đà Nẵng 3,93 tỷ USD; Hưng Yên 6,80 tỷ USD…

Các địa phương này có cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng chuyển từ những ngành có năng suất lao động thấp sang ngành có năng suất lao động cao…

Đây là nhóm có kim ngạch xuất khẩu lớn trong năm 2022. TP.HCM đứng đầu với 47,55 tỷ USD. Tiếp đến là Bắc Ninh (45,06 tỷ USD), Bình Dương (34,33 tỷ USD), Đồng Nai (24,6 tỷ USD), Hải Phòng (24,96 tỷ USD), Hà Nội (17,13 tỷ USD), Vĩnh Phúc (8,71 tỷ USD), Bà Rịa – Vũng Tàu (6,10 tỷ USD), Quảng Ninh (4,13 tỷ USD), Thái Nguyên (29,88 tỷ USD), Đà Nẵng (2,11 tỷ USD), Hưng Yên (5,3 tỷ USD)…

Tuy nhiên, trong nhóm cao trên không có thành phố trực thuộc Trung ương là Cần Thơ; không có 2 địa phương nằm trong dự kiến nâng lên thành phố trực thuộc Trung ương là Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế. Trong nhóm này, Bà Rịa – Vũng Tàu và Quảng Ngãi lớn chủ yếu nhờ khai thác dầu mỏ và chế biến xăng dầu.

Đánh giá GRDP bình quân đầu người của các địa phương

Nhóm trung bình cao có mức từ 3 tỷ USD đến dưới 4 tỷ USD, gồm 17 tỉnh, thành phố đứng từ thứ 14 đến 30.

Đây là những địa bàn có lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn, như Long An (13,06 tỷ USD), Hà Nam (5,42 tỷ USD), Hải Dương (8,89 tỷ USD), Tây Ninh (9,20 tỷ USD), Bình Phước (3,73 tỷ USD), Bắc Giang (10 tỷ USD), Bình Thuận (2,82 tỷ USD), Khánh Hòa (4,39 tỷ USD), Quảng Nam (6,06 tỷ USD).

Đây cũng là những địa bàn có chuyển dịch khá về cơ cấu kinh tế.

Nhiều địa bàn trong nhóm này đạt kim ngạch xuất khẩu hàng hóa khá trong năm 2022, như Long An (7,04 tỷ USD), Lào Cai (1,02 tỷ USD), Hà Nam (4,03 tỷ USD), Hải Dương (9,98 tỷ USD), Tây Ninh (7,59 tỷ USD), Cần Thơ (1,72 tỷ USD), Bình Phước (4,16 tỷ USD), Bắc Giang (22,63 tỷ USD)…

Tuy nhiên, một số địa bàn trong nhóm này chuyển dịch cơ cấu còn khó khăn, kim ngạch xuất khẩu nhỏ.

Nhóm trung bình thấp có mức từ 2.000 USD đến dưới 3.000 USD/người, gồm 17 tỉnh/thành phố. Nhóm này có lượng vốn đầu tư nước ngoài khá như Thanh Hóa (14,72 tỷ USD), Kiên Giang (4,81 tỷ USD), Quảng Trị (2,73 tỷ USD), Bạc Liêu (4,55 tỷ USD), Phú Thọ (3,51 tỷ USD), Thừa Thiên Huế (4,24 tỷ USD)..

Có một số địa bàn có kim ngạch xuất khẩu khá, như Thanh Hóa (5,36 tỷ USD), Tiền Giang (4,67 tỷ USD), Đồng Tháp (2,07 tỷ USD), Thái Bình (2,72 tỷ USD), Đắk Lắk (1,59 tỷ USD), Sóc Trăng (1,52 tỷ USD), Nghệ An (1,80 tỷ USD), Nam Định (2,87 tỷ USD)… Tuy nhiên, nhiều tỉnh, thành phố trong nhóm này đạt mức thấp.

Nhóm thấp có mức dưới 2.000 USD/người, gồm 4 tỉnh miền núi phía Bắc. Đây là những địa bàn khó khăn về nhiều mặt, nhất là giao thông, đầu tư, xuất khẩu, thu ngân sách…

]]>
Doanh nghiệp Nhật Bản tăng tốc đầu tư vào Việt Nam https://doanhnhandautu.com/doanh-nghiep-nhat-ban-tang-toc-dau-tu-vao-viet-nam/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:48 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6558 Liệu năm 2023 có phải là dấu mốc quan trọng để các nhà doanh nghiệp Nhật Bản tăng tốc đầu tư vào Việt Nam?]]>
Liệu năm 2023 có phải là dấu mốc quan trọng để các nhà doanh nghiệp Nhật Bản tăng tốc đầu tư vào Việt Nam?
Doanh nghiệp Nhật Bản tăng tốc đầu tư vào Việt Nam
Triển vọng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam hồi phục mạnh sau đại dịch.

Điểm đến ‘không thể bỏ qua’

Một cuộc làm việc trong không khí đầy sự tin tưởng và kỳ vọng vừa diễn ra giữa Trưởng đại diện Văn phòng Cơ quan Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tại Hà Nội, ông Nakajima Takeo và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng.

Báo cáo với Bộ trưởng, ông Nakajima Takeo khẳng định, Việt Nam là điểm đến đầu tư mà doanh nghiệp Nhật “không thể bỏ qua”. Nhiều con số trong kết quả khảo sát thực trạng doanh nghiệp Nhật đầu tư tại nước ngoài năm tài chính 2022 đã được ông viện dẫn để chứng minh cho nhận định của mình.

Chẳng hạn, tỷ lệ doanh nghiệp dự báo có lãi trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam năm 2022 là 59,5%, tăng 5,2 điểm phần trăm so với năm trước. Trong khi đó, có tới 53,6% số doanh nghiệp được hỏi cho biết sẽ “cải thiện” hơn về triển vọng lợi nhuận kinh doanh năm 2023 so với 2022.

“Triển vọng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam hồi phục mạnh sau đại dịch Covid-19”, ông Nakajima Takeo cho biết.

Khi kinh doanh thuận lợi hơn, thì dễ hiểu vì sao số doanh nghiệp Nhật Bản sẵn sàng mở rộng các hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam tăng cao hơn. Theo đó, con số là 60%, tăng 4,7 điểm phần trăm so với năm trước, cao nhất trong các nước ASEAN. Ngược lại, chỉ có 1,1% số doanh nghiệp được hỏi trả lời là sẽ “thu hẹp” hoặc chuyển sang nước khác – một tỷ lệ không đáng kể.

“Các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam đều kỳ vọng vào tiềm năng tăng doanh thu nhờ mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu. Doanh nghiệp Nhật Bản cũng mong muốn mở rộng sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao ở Việt Nam”, ông Nakajima Takeo nói.

Theo ông Nakajima Takeo, một cuộc khảo sát khác của Jetro với các công ty mẹ ở Nhật Bản đã chỉ ra rằng, mức độ hấp dẫn của thị trường đầu tư Việt Nam đứng thứ hai sau Mỹ, hơn cả Ấn Độ, Indonesia…

Các kết quả khảo sát trên có vẻ đã phản ánh đúng xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam. Thông tin cho biết, cuối tuần này, Aeon Mall dự kiến khởi công xây dựng trung tâm thương mại mới ở Thừa Thiên Huế. Với tổng vốn đầu tư hơn 3.900 tỷ đồng (tương đương khoảng 170 triệu USD), đây sẽ là trung tâm thương mại quy mô lớn của Aeon tại Việt Nam.

Ngoài ra, ông Nakajima Takeo đã nhắc đến việc Fujikin mới đầu tư xây dựng một trung tâm R&D tại Đà Nẵng, hay một số nhà đầu tư Nhật Bản muốn đầu tư tại Quảng Ninh.

Điểm đến ‘không thể bỏ qua’
Lũy kế đến tháng 1/2023, Nhật Bản đứng thứ 3 trong danh sách các đối tác đầu tư lớn nhất tại Việt Nam về tổng vốn đăng ký. Ảnh: Đức Thanh. Đồ họa: Đan Nguyễn 

Vượt trở ngại để tăng tốc đầu tư

Thủ tục hành chính, các vấn đề về tăng lương, tăng chi phí đầu vào, chi phí vận chuyển, bao gồm cả việc vẫn còn những chi phí không chính thức… đã được Jetro chỉ ra như là một trong những nguyên nhân gây cản trở dòng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam.

“Những điều này có thể làm mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc tiếp tục kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam. Chúng tôi kỳ vọng, Chính phủ chỉ đạo để cải thiện vấn đề này”, ông Nakajima Takeo nói và cũng đã nhắc đến một trong những mong muốn của doanh nghiệp Nhật Bản trong thời gian gần đây, đó là tái cơ cấu lại chuỗi cung ứng, muốn mua nguyên liệu tại chỗ nhưng tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam vẫn chưa cao.

Theo khảo sát của Jetro, hiện tỷ lệ thu mua tại chỗ ở Việt Nam chỉ đạt 37%, trong đó tỷ lệ thu mua từ doanh nghiệp bản địa Việt Nam chỉ đạt 15%. Tỷ lệ này đã được cải thiện hơn trong thời gian qua, nhưng vẫn chậm và thấp hơn so với Thái Lan, Malaysia và Indonesia.

Liên quan đến vấn đề này, khi trao đổi với ông Nakajima Takeo, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị phải làm rõ, ví dụ vướng về thủ tục hành chính thì ở văn bản nào, vấn đề nằm ở quy định pháp luật hay khâu thực thi. Ngay cả với việc chi phí đầu vào tăng lên thì cũng phải làm rõ mặt hàng nào do Nhà nước quản lý, mặt hàng nào do cung – cầu thị trường…

“Nếu giá cả cả thế giới tăng thì Việt Nam cũng không thể ‘đứng ngoài cuộc’. Tiền lương của người lao động cũng thế, không thể không tăng được”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói và thừa nhận rằng, dù đã cải thiện rất nhiều, song đúng là có chuyện một số thủ tục hành chính còn rườm rà.

“Chúng tôi cần nắm rõ vấn đề nằm ở đâu để có thể giải quyết”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói. Đồng thời, Bộ trưởng đề nghị phía Nhật Bản sớm nghiên cứu để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực, bởi điều này sẽ giúp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, tỷ lệ mua hàng tại chỗ của các doanh nghiệp Nhật Bản.

Nhật Bản đã có thời gian khá dài luôn giữ “ngôi vương” trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Gần đây, xu hướng đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam đang chậm lại. Năm 2020, con số chỉ là 2,37 tỷ USD; sang năm 2021-2022, tình hình đã được cải thiện hơn, tương ứng đạt 3,9 tỷ USD và 4,78 tỷ USD. Nhiệt điện Ô Môn II, vốn đăng ký 1,31 tỷ USD; Điện khí LNG Quảng Ninh, vốn đăng ký gần 2 tỷ USD là những dự án quy mô lớn mà Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam trong 2 năm gần đây.

Tuy nhiên, điều mà cả Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng và ông Nakajima Takeo kỳ vọng, đó là sẽ có nhiều hơn nữa vốn đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian tới, nhất là khi năm 2023 là năm mà hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

“Phải làm sao để Việt Nam luôn là điểm đến được lựa chọn cho doanh nghiệp Nhật Bản muốn đầu tư ra nước ngoài. Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng phải có sự chủ động, nhanh chóng hơn trong quyết định đầu tư vào Việt Nam”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói.

Đầu năm nay, ông Hirohiko Hirono, CEO Tập đoàn Tenma đã tới Quảng Ninh để đề xuất kế hoạch đầu tư xây dựng một nhà máy ép khuôn nhựa máy in với quy mô 150 triệu USD. Một nhà đầu tư khác – Castem, cũng muốn đầu tư tại đây một nhà máy đúc kim loại với vốn đầu tư 14 triệu USD…
]]>