#thị trường lao động – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 27 Jul 2025 00:00:51 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #thị trường lao động – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Doanh nghiệp Việt tìm lối ra sau tác động từ thuế Mỹ, chờ hỗ trợ từ chính phủ https://doanhnhandautu.com/doanh-nghiep-viet-tim-loi-ra-sau-tac-dong-tu-thue-my-cho-ho-tro-tu-chinh-phu/ Sun, 27 Jul 2025 00:00:48 +0000 https://doanhnhandautu.com/doanh-nghiep-viet-tim-loi-ra-sau-tac-dong-tu-thue-my-cho-ho-tro-tu-chinh-phu/

Chính phủ Mỹ vừa công bố mức thuế mới đối với hàng hóa nhập khẩu, mang lại tin vui cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc phục hồi sản xuất và xuất khẩu. Trước đó, mức thuế cao từ Mỹ đã khiến nhiều doanh nghiệp Việt tạm ngừng sản xuất, dẫn đến mất đơn hàng xuất khẩu. Thông tin mới này đã giúp doanh nghiệp yên tâm tái sản xuất, và thị trường lao động cũng dần sôi động trở lại.

Các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã có thể tái khởi động sản xuất, đồng thời các doanh nghiệp cũng bắt đầu nhận được đơn hàng trở lại từ các đối tác Mỹ. Ông Vương Siêu Tín, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gốm sứ Bình Dương, cho biết các doanh nghiệp trong hiệp hội đã có thêm nhiều đối tác liên hệ, ký hợp tác, đây là tín hiệu đáng mừng để ổn định sản xuất và lấy lại đà tăng trưởng.

Bà Huỳnh Đinh Khánh Linh, Giám đốc Trung tâm Thương mại Thế giới Bình Dương
Bà Huỳnh Đinh Khánh Linh, Giám đốc Trung tâm Thương mại Thế giới Bình Dương

Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với áp lực chia sẻ thuế và nỗi lo hạ tầng. Do đó, nhiều doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm và mở rộng sang các thị trường mới tiềm năng khác. Bên cạnh nỗ lực tự thân của doanh nghiệp, họ cũng mong muốn cơ quan chức năng hỗ trợ để có thể tìm kiếm được đơn hàng thông qua các hội nghị xúc tiến thương mại.

Bà Huỳnh Đinh Khánh Linh, Giám đốc Trung tâm Thương mại Thế giới Bình Dương, khẳng định trung tâm sẽ chủ động kết nối với các sở, ngành để tổ chức các hội nghị xúc tiến thương mại, giúp doanh nghiệp có thêm cơ hội mới, tiếp cận các thị trường mới. Hiêp Hôi Thương Mai Thê Gioi Binh Dương sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn lo ngại về hạ tầng giao thông chưa đồng bộ và chi phí cảng biển cao, dẫn đến chi phí vận chuyển tăng cao. Ông Lê Văn Danh, Phó Giám đốc Sở Công Thương TP.HCM, thừa nhận hạ tầng giao thông đang là điểm nghẽn lớn nhất trong hoạt động phát triển logistics và đang phối hợp với các đơn vị liên quan để rà soát, đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện hạ tầng giao thông.

Các doanh nghiệp đang kỳ vọng vào sự hỗ trợ từ cơ quan chức năng để tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Đồng thời, họ cũng cần chủ động trong việc tìm kiếm thị trường mới và đa dạng hóa sản phẩm để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

]]>
Chính phủ ban hành nghị quyết về phát triển thị trường lao động https://doanhnhandautu.com/chinh-phu-ban-hanh-nghi-quyet-ve-phat-trien-thi-truong-lao-dong/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:28 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3502 Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/01/2023 về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội. ]]>
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/01/2023 về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế – xã hội.
Chính phủ ban hành nghị quyết về phát triển thị trường lao động

Nghị quyết nêu rõ, sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, thị trường lao động Việt Nam đã có bước phát triển cả về quy mô và chất lượng, từng bước hiện đại, bền vững và hội nhập quốc tế. Hệ thống thể chế, chính sách thị trường lao động được hoàn thiện; quan hệ cung – cầu lao động gia tăng; chất lượng việc làm ngày càng cải thiện; lao động Việt Nam từng bước đảm nhiệm được những công việc phức tạp mà trước đây phải cần tới chuyên gia nước ngoài; tiền lương và thu nhập của người lao động được cải thiện rõ rệt; năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của lực lượng lao động được nâng lên, đóng góp quan trọng vào những thành tựu về kinh tế – xã hội Việt Nam đạt được trong thời gian qua.

Tuy nhiên, thị trường lao động nước ta phát triển chưa đủ mạnh để giải phóng mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, chưa tạo được nhiều việc làm theo hướng bền vững, mất cân đối cung – cầu lao động cục bộ giữa các vùng, khu vực, ngành nghề và nhân lực chất lượng chưa cao. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong thời gian qua đã làm cho thị trường lao động bị ảnh hưởng nặng nề, hàng triệu lao động bị giảm giờ làm, giảm thu nhập, tạm dừng việc, mất việc làm, thất nghiệp; gần 2 triệu lao động rời khỏi thị trường lao động (phần lớn là lao động tự do, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật); nhiều lao động di cư trở về quê, khiến quan hệ cung – cầu lao động bị ảnh hưởng tiêu cực; giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ngành nghề mới, kỹ năng mới phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, hội nhập quốc tế cũng như gắn kết cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam…

Để xây dựng và phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế – xã hội, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục quán triệt thực hiện đồng bộ, thống nhất, kịp thời, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:

Triển khai các giải pháp đột phá về phát triển nguồn nhân lực, đầu tư mạnh mẽ vào con người

Quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập tại các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội; thực hiện phát triển thị trường lao động toàn diện, bền vững theo hướng hiện đại, hiệu quả phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương làm cơ sở, động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; trong đó triển khai các giải pháp đột phá về phát triển nguồn nhân lực, đầu tư mạnh mẽ vào con người, trọng tâm là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, chủ động thích ứng với xu hướng già hóa dân số và sẵn sàng cho Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Xây dựng chính sách việc làm gắn với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng; phát triển việc làm bền vững, việc làm xanh gắn với quy hoạch kinh tế – xã hội và bố trí đầu tư; tăng cường các hình thức tín dụng để phát triển việc làm; quan tâm hỗ trợ đối tượng yếu thế tham gia vào thị trường lao động.

Phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 30%

Theo Nghị quyết, mục tiêu tổng quát là thị trường lao động phát triển linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập góp phần phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2025. Trong đó, các yếu tố của thị trường lao động được phát triển đồng bộ và hiện đại; chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả tổ chức, vận hành thị trường lao động được nâng cao. Thị trường lao động đóng vai trò chủ động trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, đảm bảo kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Cụ thể, phấn đấu đến năm 2025: Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 30%; Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 25% lực lượng lao động; duy trì tỷ lệ thất nghiệp chung ở mức thấp dưới 3%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ thất nghiệp thanh niên thành thị ở mức thấp dưới 7%, tỷ lệ thiếu việc làm của thanh niên nông thôn dưới 6%; tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt 45%, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 85%.

Các nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm

Để đạt được các mục tiêu đề ra, Nghị quyết nêu rõ các nhiệm vụ và giải pháp gồm:

1. Hoàn thiện khung pháp lý, rà soát sửa đổi các quy định của pháp luật, đáp ứng nhu cầu phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, bao gồm: Nghiên cứu, đề xuất ban hành, sửa đổi các chính sách để hạn chế thất nghiệp, nâng cao chất lượng lao động như: (i) bổ sung, hoàn thiện các chính sách mang tính chủ động, phòng ngừa thất nghiệp; (ii) chính sách hỗ trợ đào tạo nghề thông qua Thẻ học nghề cho người lao động; (iii) quy định các chuẩn chuyên môn và điều kiện đảm bảo triển khai hiệu quả hoạt động đào tạo nghề tại doanh nghiệp.

2. Phục hồi và ổn định thị trường lao động: Bám sát thực tiễn, quản trị nguồn nhân lực chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách phát triển thị trường lao động với các thị trường khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, trong đó có cung – cầu lao động. Khẩn trương rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng để kịp thời kết nối, cung ứng lao động. Đặc biệt là đánh giá nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài đã có dự án và đang nghiên cứu đầu tư vào Việt Nam.

3. Thúc đẩy tạo việc làm bền vững và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động: Tăng cường đầu tư, phát triển các ngành kinh tế tạo nhiều việc làm bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững theo hướng nâng cao chất lượng, tạo nhiều việc làm mới có năng suất, chất lượng cao. Tăng cường các nguồn tín dụng để thúc đẩy tạo việc làm mới, sáng tạo, chất lượng cao, bền vững; việc làm xanh; việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số; ưu tiên bố trí vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội có đủ nguồn lực triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho người lao động, góp phần phát triển thị trường lao động bền vững.

Bên cạnh đó, tập trung thực hiện các giải pháp để phân luồng, nâng cao chất lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Khẩn trương triển khai các điều kiện đảm bảo hiệu quả việc phân luồng, liên thông trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thúc đẩy xã hội học tập, học tập suốt đời trong cộng đồng.

Tổ chức đào tạo, cung ứng kịp thời nhân lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ.

4. Công tác truyền thông: Nâng cao nhận thức, nhất là người đứng đầu một số cơ quan bộ, ngành, địa phương, đơn vị về vai trò, tầm quan trọng phát triển thị trường lao động; chủ động có giải pháp hiệu quả để đảm bảo và phát triển thị trường lao động bền vững. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền bài bản, kịp thời, liên tục, nâng cao nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động và các chủ thể tham gia thị trường lao động; đảm bảo ổn định và phát triển thị trường lao động.

Hỗ trợ phát triển thị trường lao động, phát triển nguồn nhân lực

Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Tập trung chỉ đạo rà soát, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến hỗ trợ phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Thường xuyên đánh giá tình hình, kết quả thực hiện, chủ động giải quyết theo thẩm quyền các vấn đề phát sinh; báo cáo, tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết vấn đề vượt thẩm quyền; đề xuất cơ chế, chính sách, giải pháp mới hiệu quả, khả thi bảo đảm phát triển thị trường lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: Xây dựng mạng lưới thông tin và cơ sở dữ liệu thị trường lao động, nhu cầu kỹ năng tương lai; đầu tư nghiên cứu xây dựng, thường xuyên phân tích và công bố dự báo thị trường lao động theo ngành, nghề, vùng trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, làm cơ sở xây dựng và tổ chức triển khai kịp thời, hiệu quả các chính sách về lao động – việc làm, an sinh xã hội, cung cấp thông tin thị trường lao động cho người lao động, người sử dụng lao động, các cơ sở đào tạo, nghiên cứu.

Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức thực hiện phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông theo Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”; chỉ đạo ngành giáo dục các cấp hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ trì tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông theo hướng đẩy mạnh phân luồng và đảm bảo quyền lợi của học sinh vừa được học nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao nghiên cứu bảo đảm phù hợp và sử dụng tối đa các yếu tố thuận lợi của thị trường lao động trong quá trình xây dựng các quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch.

Bộ Tài chính: Chủ trì tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền bố trí kinh phí chi thường xuyên cho các Bộ, cơ quan trung ương để thực hiện các Chương trình, dự án trong lĩnh vực lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực theo quy định của pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nước.

]]>
Thị trường lao động trầm lắng do doanh nghiệp thiếu đơn hàng https://doanhnhandautu.com/thi-truong-lao-dong-tram-lang-do-doanh-nghiep-thieu-don-hang/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:38 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4077 Trái với quy luật hàng năm, quý IV/2022, thị trường lao động rơi vào trạng thái trầm lắng.]]>
Trái với quy luật hàng năm, quý IV/2022, thị trường lao động rơi vào trạng thái trầm lắng.

“Nguyên nhân chính là do doanh nghiệp không ký được đơn hàng xuất khẩu, buộc phải sa thải, cho nghỉ việc tạm thời, khiến tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng”, ông Nguyễn Huy Minh, Phó vụ trưởng Vụ Thống kê dân số và lao động (Tổng cục Thống kê) giải thích.

Thị trường lao động trầm lắng do doanh nghiệp thiếu đơn hàng
Ông Nguyễn Huy Minh, Phó vụ trưởng Vụ Thống kê dân số và lao động (Tổng cục Thống kê)

Quý III/2022, Tổng cục Thống kê dự báo rất lạc quan về thị trường lao động cuối năm, nhưng thực tế ngược lại với dự báo, thưa ông?

Thông thường, quý IV hàng năm, thị trường lao động luôn rất sôi động, cộng với những kết quả rất ấn tượng trong 9 tháng đầu năm, nhất là quý III, nên chúng tôi đã dự báo thị trường lao động quý IV/2022 hết sức sôi động. Nhưng diễn biến thực tế lại nằm ngoài dự báo, như kinh tế thế giới đối mặt với những thách thức rất lớn, biến động nhanh, khó lường và tính bất ổn cao; lạm phát đã tăng lên mức báo động đỏ; xung đột Nga – Ukraine càng ngày càng nóng. Tất cả những nhân tố này tác động tiêu cực ngay lập tức đến hoạt động sản xuất trong nước, vì kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu, bị thiếu hụt đơn hàng xuất khẩu, khiến thị trường lao động trở nên u ám.

Chỉ tính 148.500 doanh nghiệp thành lập mới năm 2022 đã đăng ký sử dụng 981.300 lao động, không kể số lao động do gần 60.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Đáng ra, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm phải giảm mạnh, nhưng trên thực tế lại không như vậy. Ông có thấy nghịch lý không?

Về lý thuyết, doanh nghiệp tuyển dụng nhiều thì số lượng thất nghiệp, thiếu việc làm phải giảm. Nhưng trên thực tế, doanh nghiệp đăng ký sử dụng lao động khi thành lập với cơ quan quản lý nhà nước, sau đó họ có tuyển dụng không, thì không được kiểm tra, giám sát, nên không thể biết được có bao nhiêu người lao động được tuyển dụng. Còn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động chỉ đăng ký với cơ quan quản lý thuế để tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước thông qua mã số thuế, còn họ có tuyển dụng hay không, tuyển dụng bao nhiêu, thì không báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước.

Song song với số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, thì cũng có 143.200 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 19,5%. Doanh nghiệp ngừng, tạm ngừng, giải thể ngày nào thì người lao động mất việc ngày đó, nên tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc giảm không đáng kể.

Ông có thể cho biết cụ thể hơn về tình hình doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường năm 2022?

Không ai dự báo được hoạt động sản xuất, kinh doanh các tháng cuối năm của nước ta lại đi ngược quy luật hàng năm. Nguyên nhân chính là do tác động của tình hình an ninh – chính trị nhiều nơi trên thế giới bất ổn, giá nguyên liệu, nhiên liệu, khí đốt tăng cao, buộc các nước châu Âu phải cắt giảm chi tiêu, mua sắm vào dịp cuối năm, dẫn tới nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu đơn hàng. Bên cạnh đó, lãi suất vay vốn ngân hàng và tỷ giá tăng rất mạnh kể từ đầu tháng 10/2022, khiến doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn và buộc phải cắt giảm lao động.

Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực thâm dụng lao động như dệt may, da giày, gỗ, điện tử… gặp khó khăn hơn cả. Chính vì vậy, năm 2022, đã có tổng cộng gần 296.000 lao động bị buộc nghỉ giãn việc, trong đó, số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 64%. Riêng lao động trong ngành dệt may, da giày bị nghỉ việc chiếm chiếm 72,5% và chủ yếu ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam như TP.HCM (khoảng 36.000 người), Tây Ninh (42.000 người)…

Vấn đề là, tỷ lệ thiếu việc và thất nghiệp quý IV/2022 tăng không đáng kể so với quý trước đó, trong khi hàng trăm ngàn công nhân đã phải “nghỉ Tết sớm”, hàng chục ngàn người lao động rút bảo hiểm xã hội một lần trong 3 tháng cuối năm 2022. Ông giải thích thế nào?

Theo ghi nhận, chỉ riêng 3 tháng cuối năm 2022, cả nước có 117.000 lao động bị thôi việc, mất việc, trong đó, 68% là lao động phổ thông và 85% trong số họ làm việc ở ngành dệt may, da giày và sản xuất linh kiện điện tử.

Như vậy, so với quý trước đó, trong quý IV/2022 có thêm 25.000 người bổ sung vào “đội quân thất nghiệp”. Khi bị mất việc làm tại các doanh nghiệp, người lao động phải chấp nhận làm công việc bấp bênh tạm thời, tức là tham gia thị trường lao động phi chính thức, khiến số lao động phi chính thức tăng trên 337.000 người; những người bị mất việc còn lại sẽ đi làm các công việc tự sản tự tiêu hoặc rời bỏ thị trường lao động. Vì thế, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc tăng không đáng kể.

Mỗi năm, dân số Việt Nam tăng khoảng 970.000 người, để giải quyết bài toán lao động thì số lao động có việc làm phải tăng tương ứng, nhưng trên thực tế, số lao động có việc làm tăng không đáng kể trong nhiều năm trở lại đây. Vì sao lại có tình trạng này, thưa ông?

Mức tăng dân số không tương ứng với mức tăng lao động có việc làm, bởi mức tăng lao động có việc làm dựa trên mức tăng của số người trong độ tuổi lao động.

Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ dân số vàng, nên bình quân mỗi năm có khoảng 450.000 người bước vào độ tuổi lao động. Với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khoảng 70%, thì bình quân mỗi năm trong điều kiện bình thường, Việt Nam có thêm 315.000 người gia nhập thị trường lao động. Như vậy, trong điều kiện bình thường, lao động có việc làm năm 2022 phải cao hơn năm 2019 khoảng 945.000 người. Mặc dù số lao động có việc làm năm 2022 tăng khoảng 1,5 triệu người so với năm 2021, nhưng vẫn thấp hơn năm 2019, do hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, doanh nghiệp không ký được đơn hàng xuất khẩu, đặc biệt là doanh nghiệp trong ngành dệt may, da giày, điện tử…

]]>
Những mục tiêu cụ thể phát triển thị trường lao động đến năm 2025 https://doanhnhandautu.com/nhung-muc-tieu-cu-the-phat-trien-thi-truong-lao-dong-den-nam-2025/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:24 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4239 ]]>

]]>