# Techcombank – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Wed, 23 Jul 2025 10:15:35 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # Techcombank – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Chuyển đổi số ngân hàng: Nâng cấp bảo mật để hiện đại hóa dịch vụ tài chính https://doanhnhandautu.com/chuyen-doi-so-ngan-hang-nang-cap-bao-mat-de-hien-dai-hoa-dich-vu-tai-chinh/ Wed, 23 Jul 2025 10:15:32 +0000 https://doanhnhandautu.com/chuyen-doi-so-ngan-hang-nang-cap-bao-mat-de-hien-dai-hoa-dich-vu-tai-chinh/

Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng: Xu thế và yêu cầu bắt buộc

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, ngành Ngân hàng đã không ngừng nỗ lực và đạt được nhiều thành quả quan trọng. Việc chuyển đổi nhận thức, hoàn thiện thể chế, nâng cấp hạ tầng, ứng dụng khai thác dữ liệu và phát triển các mô hình ngân hàng số đã trở thành những yếu tố then chốt. Ngành Ngân hàng lấy người dân làm trung tâm để phục vụ, góp phần hướng tới mục tiêu lớn hơn là phát triển nền kinh tế số toàn diện của đất nước.

Ngành Ngân hàng đã triển khai mạnh mẽ công cuộc chuyển đổi số thông qua việc ban hành nhiều chính sách, điển hình như Quyết định số 810/QĐ-NHNN về Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Điều này không chỉ thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt mà còn khuyến khích đổi mới sáng tạo. Đồng thời, ngành Ngân hàng cũng rà soát và hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho hoạt động hệ thống ngân hàng ứng dụng công nghệ và thúc đẩy chuyển đổi số.

Trong năm 2023, ngành Ngân hàng đã đặt nền móng số hóa quy trình lõi và khai thác dữ liệu quốc gia để định danh chính xác khách hàng. Sang năm 2024, ngành tiếp tục tiên phong kết nối hệ sinh thái liên ngành để phục vụ người dân và doanh nghiệp một cách toàn diện. Tới năm 2025, ngành Ngân hàng sẽ cụ thể hóa nhiệm vụ tại Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Ông Trần Quốc Hà, quyền Giám đốc Ngân hàng Nhà nước khu vực XIV, cho biết rằng ngành Ngân hàng đã ghi nhận những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Hiện có 100% ngân hàng thương mại trên địa bàn đã cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử và tỷ lệ giao dịch số chiếm trên 85% tổng số giao dịch tại nhiều ngân hàng. Hơn 90% người dân trong độ tuổi lao động tại khu vực đô thị đã có tài khoản thanh toán.

Là một trong những ngân hàng tiên phong số hóa tại Việt Nam, Techcombank đã đầu tư mạnh mẽ vào dữ liệu, AI, nền tảng công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Bà Nguyễn Thị Lộc, Giám đốc điều hành miền Nam Techcombank, khẳng định rằng ngân hàng này cam kết đồng hành cùng các doanh nghiệp địa phương bằng các giải pháp tài chính hiện đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn những khó khăn và thách thức mà ngành Ngân hàng cần vượt qua, bao gồm hạ tầng số tại một số vùng còn yếu và nhận thức về bảo mật, an toàn thông tin còn hạn chế.

Từ thực tế đó, nhiều ý kiến cho rằng, để chuyển đổi số ngân hàng phát huy hiệu quả cao hơn, cần ban hành quy định cụ thể về bảo mật dữ liệu ngân hàng và đảm bảo tiêu chuẩn an ninh mạng. Hệ thống pháp lý cũng cần yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao tính toàn vẹn và bảo mật.

Có thể thấy, chuyển đổi số không chỉ là xu thế mà còn là yêu cầu bắt buộc để thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Ông Trần Quốc Hà nhấn mạnh rằng Ngân hàng và doanh nghiệp cần đồng hành để tạo ra hệ sinh thái tài chính số an toàn, hiệu quả, thông minh.

]]>
Xu hướng mới trong trải nghiệm số ngành ngân hàng: Tiền tự sinh lời https://doanhnhandautu.com/xu-huong-moi-trong-trai-nghiem-so-nganh-ngan-hang-tien-tu-sinh-loi/ Sun, 08 Jun 2025 23:52:35 +0000 https://doanhnhandautu.com/?p=19895

Tiền tự sinh lời - Xu hướng mới trong trải nghiệm số ngành ngân hàng

Với sản phẩm “Sinh lời tự động”, Techcombank không chỉ tạo ra một xu hướng mới mà còn thúc đẩy sự thay đổi trong toàn ngành ngân hàng


Thay đổi thói quen tài chính với ‘tiền tự sinh lời’
Năm 2016, Techcombank từng gây chấn động với chương trình “Zero fee” – miễn phí toàn bộ giao dịch trực tuyến. Chỉ sau vài năm, hầu hết các ngân hàng tại Việt Nam đã áp dụng chính sách tương tự.
Bước sang năm 2024, Techcombank tiếp tục tiên phong với sản phẩm “Sinh lời tự động”, một bước tiến xa hơn trong việc tối ưu tài chính cá nhân. Theo số liệu từ ngân hàng, tính đến tháng 3/2025, hơn 3 triệu khách hàng đã được tối ưu lợi suất khi kích hoạt “Sinh lời tự động”. Sự thành công của Techcombank không chỉ nằm ở việc tiên phong trong sản phẩm mà còn ở khả năng thay đổi hành vi tài chính của khách hàng, tạo ra một chuẩn mực mới trong ngành ngân hàng Việt Nam.
Tiền tự sinh lời - Xu hướng mới trong trải nghiệm số ngành ngân hàng
Điểm đặc biệt của “Sinh lời tự động” là sự linh hoạt. Chỉ với 1 click, khách hàng không cần bận tâm đến việc lựa chọn để tối ưu lợi suất cho số tiền nhàn rỗi. Mọi thứ được tự động thiết lập để tài khoản luôn đạt mức lợi suất cao nhất, lên đến 4%/năm.
Không chỉ cho phép khách hàng sử dụng một phần số dư tài khoản trong một số khung giờ nhất định, “Sinh lời tự động” phiên bản 2.0 của Techcombank còn giúp khách hàng linh hoạt sử dụng toàn bộ số dư tài khoản cho mọi giao dịch như thanh toán, chuyển khoản hoặc rút tiền 24/7 mọi lúc, mọi nơi.
Lãnh đạo Techcombank cho biết, “Sinh lời tự động” không chỉ là một công cụ giúp tối ưu lợi suất dòng tiền nhàn rỗi mà còn thay đổi cách khách hàng quản lý tài chính. Khi số dư trong tài khoản được tự động tối ưu lợi suất, khách hàng có xu hướng giữ tiền trong tài khoản lâu hơn thay vì rút ra tiêu dùng.
Khái niệm “tiền tự sinh lời” không còn xa lạ trên thế giới. Các ngân hàng tại Singapore, Hàn Quốc hay Trung Quốc đã triển khai nhiều sản phẩm tài chính linh hoạt, giúp khách hàng tối ưu dòng tiền mà vẫn duy trì khả năng thanh khoản. Tại Việt Nam, Techcombank tiên phong với sản phẩm “Sinh lời tự động”, thu hút 3 triệu người dùng chỉ sau hơn một năm ra mắt.
Sau Techcombank, các ngân hàng khác cũng đã tung ra các sản phẩm tương tự, cho thấy sự thay đổi lớn trong ngành tài chính Việt Nam, nơi trải nghiệm khách hàng và công nghệ số đang trở thành yếu tố quyết định. ]]>
Chất lượng tài sản ngân hàng ra sao trong năm 2023 https://doanhnhandautu.com/chat-luong-tai-san-ngan-hang-ra-sao-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:14 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5200 Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.]]>
Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Thực tế, chất lượng tín dụng trong quý III và IV/2022 cho thấy, kết quả kinh doanh nhiều ngân hàng không khả quan, khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên, dù tỷ lệ dự phòng giảm.

Chẳng hạn, tại Saigonbank, một điểm tối trong bức tranh kinh doanh năm qua của Ngân hàng là tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 chiếm gần 398 tỷ đồng trong tổng dư nợ, tăng 22% so với đầu năm. Nợ dưới tiêu chuẩn có tốc độ tăng mạnh nhất. Do đó, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,97% đầu năm lên 2,12%.

Trong năm 2022, Saigonbank trích hơn 250 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó, Ngân hàng thu được hơn 237 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 54% so với năm trước. So với kế hoạch lãi trước thuế 190 tỷ đồng cho cả năm 2022 đã vượt 25% chỉ tiêu.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Với TPBank, chất lượng nợ vay đi lùi khi tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của nhà băng này tăng 17% so với đầu năm, chiếm 1.357 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, tăng mạnh nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 và phải trích 100% dự phòng rủi ro). Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng nhẹ từ 0.82% đầu năm lên 0,84%.

Năm qua, TPBank trích gần 1.844 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, giảm 37%, do đó Ngân hàng thu về hơn 7.828 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 30% so năm trước. Nhưng nếu so với kế hoạch 8.200 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế đề ra cho cả năm, TPBank chỉ mới thực hiện được 95% mục tiêu.

Việc kiểm soát nợ xấu trong năm 2022 cũng là một thử thách lớn trước thực trạng khó khăn chung của nền kinh tế và hoạt động của các doanh nghiệp, tuy nhiên ABBank đã trích lập dự phòng cho các khoản vay. Tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của ngân hàng gần 2.366 tỷ đồng, tăng 46% so với đầu năm qua. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ 2,34% đầu năm lên 2,88%.

Chi phí hoạt động năm qua của ABBank chỉ tăng 8%, lên gần 2.043 tỷ đồng. Trong năm qua, ABBank trích ra gần 777 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó Ngân hàng chỉ thu về hơn 1.702 tỷ đồng lãi trước thuế, giảm 13% so với năm trước. So với kế hoạch 3,079 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, ABBank chỉ thực hiện được 55% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của LienVietPostBank (LPB) tăng 20% so với đầu năm qua, chiếm 3.427 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh nhất. Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,37% đầu năm lên 1,46%. Nhưng dù trong năm LPB dành ra gần 3.174 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, gấp 2,4 lần so cùng kỳ năm trước, Ngân hàng vẫn thu được gần 5.690 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 56%. Như vậy, nếu so với kế hoạch 4.800 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, LPB đã vượt 19% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của VIB tăng 22% so với đầu năm, chiếm 5.687 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 2,32% đầu năm lên 2,45%. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 23%, đạt gần 11.861 tỷ đồng. Trong năm qua, VIB dành ra gần 1.280 tỷ đồng để trích lập dự phòng rủi ro, giảm 22%. Kết quả, VIB thu được hơn 10.581 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 32%. Như vậy, VIB đã hoàn thành kế hoạch 10.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2022 đặt ra.

Ngoài ra, dù chưa chính thức công bố báo cáo tài chính nhưng hiện đã có một số ngân hàng thông báo kết quả kinh doanh năm 2022. Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2023, Vietcombank đã công bố kết quả kinh doanh năm 2022. Trong đó, về chất lượng tín dụng, ngân hàng cho biết tổng số dư nợ xấu là 7.662 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,67%. Với VietinBank, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng được kiểm soát ở mức 1,2%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu xấp xỉ 190% (tăng 10% so với năm 2021). Kết quả thu hồi nợ gốc lãi xử lý rủi ro tăng hơn 60% so với số thu năm 2021.

Còn tại BIDV, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1,96 triệu tỷ đồng, tăng 19% so với đầu năm, trong đó dư nợ tín dụng đạt 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 12.65% so với đầu năm, cao hơn mức thực hiện năm 2021 (11,8%). Tỷ lệ nợ xấu theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN được ngân hàng kiểm soát ở mức 0,9%.

Hay trước đó, tại thời điểm kết thúc 9 tháng đầu năm, báo cáo tài chính các ngân hàng đã cho thấy nợ xấu hâu hểt ngân hàng đều có xu hướng tăng mạnh. Có những nhà băng tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng vượt ngưỡng 3%. Xét về mức độ tăng trưởng, MB, ACB và Vietbank là những ngân hàng có số dư nợ xấu tăng nhanh với mức tăng 30-45% so với cùng kỳ, với số dư nợ xấu lần lượt là 4.415 tỷ đồng, 4.056 tỷ đồng và 2.456 tỷ đồng.

Tuy nhiên, Vietcombank, MB, BIDV, ACB, VietinBank, SHB, Techcombank, TPBank… là những ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, trong đó Vietcombank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên đến gần 500%.

NCB cũng là nhà băng có nợ xấu cao. Phía ngân hàng cho biết nguyên nhân nợ xấu tăng trong kỳ do ngân hàng thực hiện phân loại lại nợ xấu, nợ quá hạn theo đúng tình trạng khoản nợ theo quy định của NHNN, đặc biệt là sau khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng do dịch Covid-19 đã hết hạn vào ngày 30/6/2022.

Nhận định về nợ xấu ngân hàng năm 2022, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tức là nợ xấu của nền kinh tế, hiện nay có xu hướng tăng lên, công tác kiểm soát nợ xấu sẽ gặp khó khăn bởi dịch bệnh kéo dài, tác động có độ trễ nên sẽ ảnh hưởng lớn hơn hoạt động ngân hàng trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

NHNN cho rằng, những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể sẽ bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới, khi đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dự báo sẽ tiếp tục tăng. Thực tế, năm 2022, nợ xấu ngân hàng vẫn là thách thức khó khăn trong bối cảnh lạm phát và lãi suất tăng cao.

Giới phân tích cho rằng, trong những tháng cuối năm 2022, nợ xấu ngành ngân hàng có thể tăng thêm và tiếp tục phân hóa tùy thuộc vào tính chất tệp khách hàng cũng như các yếu tố vĩ mô như sự phục hồi kinh tế và kiểm soát lạm phát. Dự báo về nợ xấu nội bảng năm 2022, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia dự báo nợ xấu nội bảng có thể lên mức 2,3 – 2,5%. Đồng thời, nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024, quy định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan.

Chất lượng tài sản trong 2023 ra sao

Theo kết quả cuộc điều tra xu hướng tín dụng của các tổ chức tín dụng do NHNN thực hiện , dự báo 6 tháng tới và năm 2023, các tổ chức tín dụng quan ngại mặt bằng rủi ro tín dụng tổng thể tiếp tục tăng nhẹ ở hầu hết các lĩnh vực ngoại trừ một số lĩnh vực cho vay phát triển nông, lâm, thủy sản, cho vay đầu tư ứng dụng công nghệ cao, cho vay đầu tư công nghiệp hỗ trợ, cho vay công nghiệp chế biến chế tạo được kỳ vọng rủi ro giảm.

Hai lĩnh vực được dự báo vẫn tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao nhất là cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán.

Trong 6 tháng đầu năm 2023 và cả năm 2023, 61,6%- 64,6% tổ chức tín dụng dự kiến giữ nguyên tiêu chuẩn tín dụng, chỉ có 19,2%-20,2% tổ chức tín dụng dự kiến “thắt chặt nhẹ” tiêu chuẩn tín dụng tổng thể của đơn vị mình, tuy nhiên mức độ thắt chặt đã giảm so với 6 tháng cuối năm 2022 và cả năm 2022, đồng thời có 16,2-17,2% tổ chức tín dụng dự kiến “nới lỏng”.

Dự kiến “thắt chặt” chủ yếu diễn ra ở lĩnh vực “Cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản”, “Cho vay kinh doanh tài chính, ngân hàng và bảo hiểm”, khoản vay trung, dài hạn và khoản vay bằng ngoại tệ. Theo nhận định của các tổ chức tín dụng, nguyên nhân chủ yếu là do “Mức độ rủi ro của thị trường” tăng lên (“Rủi ro từ phía khách hàng”; “Rủi ro ngành nghề”) cùng với những thách thức về triển vọng kinh tế.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản được giới phân tích tài chính nhận định, không chỉ ảnh hưởng triển vọng tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu.

VDSC cho rằng, năm 2023, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục hành trình vượt bão trong chu kỳ bất động sản đi xuống cùng với triển vọng kém tích cực của xuất nhập khẩu, nhưng khả năng chống chịu của từng ngân hàng sẽ tùy thuộc vào chất lượng tài sản và mức độ thận trọng của ngân hàng trong những năm qua. Tuy nhiên, quy mô nợ xấu và chi phí tín dụng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng, dựa trên mức độ thận trọng của ngân hàng trong việc trích lập dự phòng và khả năng hồi phục tài chính của của khách hàng.

Trong khi đó, VNDirect nhận định, bên cạnh căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến việc các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về thanh khoản, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao, do USD và lãi suất tiền đồng tăng, ảnh hưởng lên khả năng trả nợ. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023.

Tuy nhiên, với các ngân hàng đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và không liên quan nhiều đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Vì thế, NHNN cho biết, tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…

Đáng chú ý, Phó thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Một trong những thách thức lớn nhất là lạm phát cao, các ngân hàng trung ương lớn trên giới như Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất chứ không chỉ dừng lại ở đó, do đó, áp lực tăng lãi suất rất cao. Với ngành ngân hàng trong nước, các ngân hàng thương mại sẵn sàng tiếp tục hy sinh lợi nhuận để giảm lãi suất, chia sẻ với doanh nghiệp, với nền kinh tế trong năm 2023.

Dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Trong đó, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.

Vì vậy, cá chuyên gia kinh tế – tài chính dự báo trong năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Tương tự, Công ty Chứng khoán SSI đánh giá, năm 2023 sẽ là năm chông gai đối với ngành ngân hàng. Bởi lẽ, khi nhìn ở góc độ trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, nhiều doanh nghiệp bất động sản bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn và tái cơ cấu cho hoạt động kinh doanh của mình.

Điều này có thể sẽ làm gia tăng rủi ro liên quan đến khả năng trả nợ của những công ty này với ngân hàng. Thêm vào đó, tổng dư nợ toàn bộ các khoản cho vay mua nhà tại các ngân hàng SSI phân tích ở mức khoảng 1,3 triệu tỷ đồng. Thế nhưng, thị trường bất động sản lại đang có xu hướng giảm giá và chưa thấy tín hiệu hồi phục.

SSI duy trì quan điểm rằng, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản trong thời gian tới. Trừ khi có các quy định đặc biệt về phân loại nợ, trích lập dự phòng cho các khoản vay,trái phiếu đáo hạn vào năm 2023 được thực hiện, nợ xấu và trích lập dự phòng sẽ là những áp lực tương đối lớn.

Ngân hàng gia tăng bộ đệm dự phòng rủi ro

Theo WiGroup, tỷ lệ nợ xấu đã tăng quý thứ 4 liên tiếp và đạt mức 1,6% toàn hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu chủ yếu đến các khoản nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) đã tăng mạnh hơn 30.000 tỷ đồng (tăng 70%) so với đầu năm 2022.

rủi ro

WiGroup cho rằng, diễn biến này dường như đã nằm trong kịch bản của các ngân hàng nhờ tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức rất cao trước đó (150% trong quý I/2022) giúp giảm đi áp lực trích lập dự phòng nếu nợ xấu tiếp tục gia tăng. Tính đến cuối quý III/2022, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã giảm xuống còn 141%.

Bức tranh nợ xấu năm 2022 của ngành ngân hàng chứng kiến sự gia tăng mạnh về số dư nợ xấu, trong đó có nợ nhóm 5. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản của ngân hàng đã bị ảnh hưởng bởi việc Thông tư 14 này hết hiệu lực.

Theo số liệu của Chứng khoán VNDirect, tỷ lệ nợ xấu trung bình của ngành tăng lên mức 1,44% vào cuối quý III/2022 từ 1,34% vào cuối quý II và 1,28% cuối năm 2021. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) trung bình của ngành đã tăng lên mức 168,7% vào cuối quý III/2022, thấp hơn so với mức 172,6% vào cuối quý II nhưng vẫn cao hơn mức 159,6% vào cuối năm 2021.

Trong khi đó, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, tỷ lệ nợ xấu chỉ nhích nhẹ sau khi nợ tái cơ cấu do Covid-19 bị chuyển nhóm nợ từ quý III/2022, sau khi thông tư 03/2021 cho phép giữ nguyên nhóm nợ. Ngoài ra, hầu hết ngân hàng đều đã trích lập đủ dự phòng cho các khoản nợ cơ cấu và nợ kéo theo, các ngân hàng còn lại chưa trích lập đủ sẽ phải đối mặt với khả năng chi phí tín dụng gia tăng đối với nợ cơ cấu trong những quý tới.

Theo kết quả kinh doanh năm 2022 mới công bố, tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu của Vietcombank đạt 465%, cao nhất toàn hệ thống ngân hàng. VietinBank cũng đã công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 245%, mức cao nhất trong các năm gần đây. Các số liệu công bố trước đó của một số ngân hàng khác như BIDV, Techcombank, ACB, MB… cũng đều cho thấy tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%.

Trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng sẽ có sự gia tăng nợ xấu và chi phí tín dụng trong vài quý tiếp theo do rủi ro từ vĩ mô thế giới ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng ngành xuất nhập khẩu cũng như triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chu kỳ đi xuống của ngành bất động sản và những rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng chiếm xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản không chỉ ảnh hưởng triển tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu. Tổng số trái phiếu doanh nghiệp sau khi loại trừ nhóm trái phiếu do ngân hàng phát hành hiện đang lưu hành là khoảng 945 nghìn tỷ đồng, trong đó 27% sẽ đáo hạn vào năm 2023 và 2024, và 12% sẽ đáo hạn vào năm 2025. Gần một phần ba số trái phiếu này nằm trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.

Tuy nhiên, con số này vẫn không bao gồm những trái phiếu đã được phân phối cho các nhà đầu tư cá nhân, nhưng có bảo lãnh thanh toán cũng như những trái phiếu hiện không có trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng vẫn sẽ chịu rủi ro tín dụng liên quan đối với những trái phiếu theo hợp đồng repo.

Đáng chú ý, nhiều chủ đầu tư bất động sản đang phải đối mặt với các khó khăn với lượng hàng tồn kho tăng lên, doanh số bán hàng giảm và chịu áp lực đáng kể về dòng tiền ngắn hạn khi một số trái phiếu sắp đến ngày đáo hạn, đặc biệt là trong giai đoạn từ tháng 12/2022 đến tháng 3/2023, kéo nợ xấu tăng. 

Do đó, các chuyên gia tài chính cho rằng, các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và ít phơi nhiễm với trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Trong đó, nhóm ngân hàng quốc doanh (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank), và một số ngân hàng tư nhân chính sách cho vay và trích lập dự phòng rủi ro thận trọng sẽ lđáp ứng tốt với các tiêu chí trên.

]]>
Ra Tết gửi tiền ngân hàng nào lãi suất cao nhất? https://doanhnhandautu.com/ra-tet-gui-tien-ngan-hang-nao-lai-suat-cao-nhat/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:08 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5268 Mặt bằng lãi suất tiền gửi sau Tết có điều chỉnh nhẹ ở kỳ hạn trên 1 năm, song các nhà băng vẫn duy trì mức cao, tối đa 9,5%/năm. Song áp lực lãi vay khó sớm giảm.]]>
Mặt bằng lãi suất tiền gửi sau Tết có điều chỉnh nhẹ ở kỳ hạn trên 1 năm, song các nhà băng vẫn duy trì mức cao, tối đa 9,5%/năm. Song áp lực lãi vay khó sớm giảm.

Gửi ngân hàng nào được lãi suất cao?

Lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại ổn định ở mức cao. Những kỳ hạn gửi dưới 6 tháng ở mức kịch trần 6%/năm, trên 6 tháng có sự cạnh tranh khác biệt giữa từng nhà băng. DongABank nhận lãi cuối kỳ ở kỳ hạn 6 tháng có mức lãi suất 9,35%/năm, 12 tháng lãi suất 9,5%/năm.

Saigonbank kỳ hạn 6 tháng có mức lãi suất 9,2%/năm, 12 tháng 9,4%/năm, còn 13 – 18 tháng là 9,5%/năm, từ 24 tháng trở đi chỉ còn 9,3%/năm; Techcombank huy động tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng 9%/năm, từ 12 tháng trở đi là 9,2%/năm… Các ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank có mức lãi suất huy động cao nhất là 7,4%/năm từ 12 tháng trở lên.

Gửi ngân hàng nào được lãi suất cao?

Đối với kỳ hạn tiền gửi dài ngày, một số ngân hàng có điều chỉnh giảm nhẹ từ 0,1-1%/năm sau tết Nguyên Đán như tại Techcombank, mức lãi suất huy động cao nhất ở ngân hàng này là 9,2%/năm. Trong khi trước tết, con số này là 9,5%/năm.

Sacombank hiện lãi suất cao nhất chỉ còn 9,2%/năm áp dụng cho tiền gửi online, kỳ hạn từ 15 đến 36 tháng. Tại PVCombank cũng giảm từ 9,9%/năm xuống 9,5%/năm dành cho khách hàng gửi tiền qua kênh online theo hình thức tiền gửi bậc thang, kỳ hạn 36 tháng… Tuy có giảm, song nhìn chung mặt bằng lãi suất vẫn ở mức tối đa 9,5%/năm theo như cam kết của các thành viên với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

Thậm chí, nếu cộng các chương trình ưu đãi, khuyến mãi mà ngân hàng “tung” ra để thu hút khách hàng tiền gửi đầu năm, thì lãi suất còn cao hơn. Đó là chưa kể, thị trường vẫn tồn tại tình trạng một số nhà băng còn thỏa thuận “ngầm” về lãi suất tiết kiệm với khách hàng có số lượng tiền gửi lớn khi cộng thêm biên độ 0,5-1,5%/năm.

TS. Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính, ngân hàng đưa ra nhận định, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có yêu cầu khống chế lãi suất huy động dưới 9,5%/năm, song đây vẫn là một con số cao so với mọi năm. Dòng tiền vẫn đang và sẽ tìm đến tiết kiệm.

Tính đến cuối tháng 12/2022 so với đầu năm, tổng tiền gửi toàn hệ thống tăng 6%. Nhưng dữ liệu tiền gửi dân cư do Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy, tiền gửi tăng thêm 84.597 tỷ đồng chỉ trong tháng 11 năm 2022. Đây là tháng có tốc độ tăng khá nhanh khi mặt bằng lãi suất huy động tiết kiệm trên thị trường lên cao.

Lượng tiền gửi của khu vực dân cư trong tháng 11/2022 tăng 8,38%, đạt hơn 5,744 triệu tỷ đồng. Chỉ trong tháng 11, lượng tiền gửi của người dân tăng thêm 84.597 tỷ đồng, nâng mức tăng so với cuối năm 2021 lên 444.114 tỷ đồng. Đây là tháng có mức tiền gửi dân cư tăng nhanh trong năm 2022.

Người dân có xu hướng gửi tiết kiệm vào những tháng cuối năm 2022 khi lãi suất huy động của các ngân hàng gia tăng mạnh mẽ. Đối với những kỳ hạn dưới 6 tháng, lãi suất tăng lên mức kịch trần 6%/năm, từ 6 tháng trở lên nhiều nhà băng tăng 10 – 12%/năm vào tháng 11 đến giữa tháng 12. Đến giữa tháng 12/2022, các ngân hàng đồng thuận lãi suất huy động tiết kiệm ở mức tối đa 9,5%/năm nên cuộc đua huy động vốn bằng lãi suất của các nhà băng tạm lắng dịu.

Tốc độ tăng tiền gửi của khu vực dân cư trong năm 2022 nhanh hơn nhiều so tiền gửi các tổ chức kinh tế. Vào cuối năm 2021, tốc độ tăng tiền gửi tổ chức kinh tế lên đến 15,73%, đạt 5,645 triệu tỷ đồng, còn tiền gửi dân cư chỉ tăng 3,08%, đạt 5,3 triệu tỷ đồng.

Thế nhưng đến nay, chiều hướng đã ngược lại, các tổ chức kinh tế gửi tiền chỉ tăng có 2,9% so với cuối năm 2021, đạt 5,808 triệu tỷ đồng, tương đương tăng 163.000 tỷ đồng, trong khi lượng tiền gửi dân cư tăng gấp đôi. Lượng tiền gửi của dân cư hiện tăng gần bằng so với tổ chức kinh tế. Bởi lãi suất tiết kiệm tăng, trong khi doanh nghiệp ngại vay vốn ngân hàng do áp lực lãi vay đi lên. 

Cụ thể, mặt bằng lãi suất huy động của ngân hàng phổ biến từ 9% đến 10%/năm với kỳ hạn trên 12 tháng. Trong đó, một số ngân hàng huy động tới 11,5%/năm trong quý cuối năm 2022. Theo các chuyên gia, trong ngắn và trung hạn, lãi suất huy động vẫn còn dư địa tăng nên số dư tiền gửi tại các ngân hàng tiếp tục tăng trưởng tốt.

Quá trình tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6 năm 2023. Sau sự việc liên quan đến SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định, ưu tiên cao nhất của là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Dù vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, ngân hàng vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

Trên cơ sở đó, các dự báo được đưa ra, mặt bằng lãi suất huy động đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 với mức tăng 1 – 1,5 điểm phần trăm và giảm dần từ quý III/2023.

Đánh giá về thực tế này, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc Fiin Ratings cho rằng, ở góc độ người dân lựa chọn kênh đầu tư so với tiết kiệm, nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì cao người có tiền cứ tiếp tục gửi tiết kiệm ngân hàng với rủi ro thấp và mức hấp dẫn không kém đưa tiền vào kênh đầu tư.

Vì vậy, với nhiều người nếu có tiền nhàn rỗi thì kênh tiết kiệm vẫn an toàn nhất. Hơn nữa, lãi suất vẫn đang duy trì ở mức cao nên là khá ổn. Nhưng nếu xét trong dài hạn cho cả năm 2023 thì có thể các kênh đầu tư khác sẽ hồi phục từ mức thấp thì khi đó tỷ suất sinh lời có thể cao hơn tiền lãi tiết kiệm.

Áp lực cho người cần vốn

Chứng khoán SSI nhận định, lãi suất huy động tại một số ngân hàng tăng mạnh từ tháng 10/2022 lên khoảng 9 – 10%/năm, kéo theo lãi suất cho vay cũng tăng mạnh lên khoảng 14 – 15% đối với cho vay cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lãi suất cho vay cao đã phần nào tác động tiêu cực đến nhu cầu vay mới trong giai đoạn cuối năm qua.

SSI cũng đưa ra dự báo mặt bằng lãi suất có thể sẽ không tăng mạnh trong năm 2023. Với điều kiện có sự hỗ trợ kịp thời từ Ngân hàng Nhà nước về thanh khoản, cùng với sự điều hành linh hoạt liên quan đến các tỷ lệ an toàn hoạt động và Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi về trái phiếu, tình hình thanh khoản có thể cải thiện so với 6 tháng cuối năm 2022.

Áp lực cho người cần vốn

Tuy nhiên, SSI cho rằng chỉ khi các đợt tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) kết thúc thì lãi suất tiền đồng trong nước mới có thể hạ nhiệt, có thể là trong nửa cuối năm 2023. Khoảng cách giữa tăng trưởng tín dụng và huy động có khả năng thu hẹp so với năm 2022, lần lượt ở mức 12 – 14% và 10 – 12%.

Thế nhưng, qua khảo sát của phóng viên tại 35 ngân hàng trong ngày làm việc đầu tiên của năm Quý Mão 2023, có 30 nhà băng niêm yết mức lãi suất cao nhất trên 9%/năm. Trong đó, chỉ còn 5 ngân hàng ghi nhận con số này trên 9,5%.

Giới phân tích tài chính cho rằng, nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì như hiện nay (9-10%) thì các doanh nghiệp khó có thể huy động vốn cho đầu tư phát triển. Bởi cách đơn giản nhất là người có tiền cứ tiếp tục gửi tiết kiệm ngân hàng với rủi ro thấp và mức hấp dẫn không kém đưa tiền vào kênh đầu tư.

Vả lại, giới phân tích cũng đưa ra nhận định, một khi chi phí đầu vào còn tăng thì hoạt động cho vay gặp khó, do doanh nghiệp không thể sử dụng vốn vay khi lãi suất tăng cao. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài lĩnh vực ưu tiên hiện dao động 10-13%/năm. Thậm chí cao hơn mức này, nhưng cũng không dễ tiếp cận vốn. Còn với khách hàng cá nhân, nhất là với cho vay mua nhà lãi vay lên 14-16%/năm.

Đó cũng là lý do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kêu gọi các ngân hàng hội viên thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tại các kỳ hạn tối đa 9,5%/năm (kể cả các khoản khuyến mại cộng lãi suất) ổn định mặt bằng lãi suất huy động, đảm bảo an toàn thanh khoản hệ thống ngân hàng, đặc biệt trong những tháng cuối năm, trên cơ sở đó tiết giảm chi phí nhằm giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp.

Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước khuyến khích các tổ chức tín dụng ổn định mặt bằng lãi suất cho vay. Đây là một trong những chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 27/1/2023 đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện nhiệm vụ trọng tâm sau kỳ nghỉ Tết nguyên đán Quý Mão 2023…

Cụ thể, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động theo dõi sát tình hình, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả; phối hợp chặt chẽ, hài hoà với chính sách tài khoá và các chính sách khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Chú trọng bảo đảm thanh khoản, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng nguồn vốn tín dụng vào các động lực tăng trưởng, phát triển sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Rà soát, có biện pháp phù hợp tháo gỡ khó khăn về tín dụng bất động sản đối với cả doanh nghiệp bất động sản và người mua, thúc đẩy phát triển các dự án bất động sản hiệu quả, cơ cấu lại và phát triển thị trường bất động sản, xử lý nợ xấu, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân…; tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.

Trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN vừa được Ngân hàng Nhà nước ban hành đầu năm 2023 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành năm nay, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục yêu cầu các ngân hàng tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp; cắt giảm chi phí hoạt động, khuyến khích trả cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, nâng cao năng lực tài chính và khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế, ổn định mặt bằng lãi suất thị trường.

Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú cũng cho biết, việc điều hành lãi suất và tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2023  trước hết là tính toán từ những con số, thông số đó để xác định một chính sách ổn định, tiếp tục duy trì sự ổn định của lãi suất cũng như tỷ giá hiện nay.

Nếu như trong thời gian tới điều kiện có những thuận lợi cho ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, thì Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục chỉ đạo, vận động các ngân hàng thương mại tiếp tục cắt giảm chi phí để giảm bớt lãi suất so với mức giảm lãi suất đã cam kết đồng thuận vào cuối năm 2022, thêm một lần nữa, tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân, cho nền kinh tế vay vốn với mức lãi suất thấp hơn.

]]>
Techcombank: Tổng tài sản tăng gần 23% trong năm 2022, kiểm soát nợ xấu dưới 1% https://doanhnhandautu.com/techcombank-tong-tai-san-tang-gan-23-trong-nam-2022-kiem-soat-no-xau-duoi-1/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:02 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5342 Tổng tài sản của Techcombank (mã TCB - sàn HoSE) tại thời điểm cuối năm 2022 ở mức 699.000 tỷ đồng, tăng gần 23% trong năm 2022, tỷ lệ an toàn (CAR) theo Basel II đạt 15,2%, và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) tiếp tục ở vị thế đầu ngành, đạt 3,2%.]]>
Tổng tài sản của Techcombank (mã TCB – sàn HoSE) tại thời điểm cuối năm 2022 ở mức 699.000 tỷ đồng, tăng gần 23% trong năm 2022, tỷ lệ an toàn (CAR) theo Basel II đạt 15,2%, và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) tiếp tục ở vị thế đầu ngành, đạt 3,2%.
Techcombank: Tổng tài sản tăng gần 23% trong năm 2022, kiểm soát nợ xấu dưới 1%

Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank – mã chứng khoán TCB) vừa công bố báo cáo tài chính quý IV/2022.

Theo đó, Techcombank khép lại quý IV/2022 với 10,8 triệu khách hàng, thu hút thêm 373.000 khách hàng mới trong quý và 1,2 triệu khách hàng mới trong năm 2022. Khối lượng giao dịch qua kênh điện tử của khách hàng cá nhân trong quý IV/2022 đạt 238,7 triệu giao dịch (tăng 21,7% so với cùng kỳ năm ngoái), với giá trị giao dịch đạt 2,5 triệu tỷ đồng.

Chi phí dự phòng tiếp tục trong xu hướng giảm, xuống mức 1.900 tỷ đồng, giảm 27,3% so với cùng kỳ năm trước, nhờ việc hoàn nhập dự phòng một số chi phí đã trích trước cho các khoản vay tái cơ cấu do Covid-19 trong năm 2020-2021.

Nhờ kinh doanh tích cực và tiết giảm được chi phí nên lợi nhuận trước thuế năm 2022 của Techcombank tăng trưởng 10%, đạt 25,6 nghìn tỷ đồng. Tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh của Techcombank năm 2022 đạt 40,9 nghìn tỷ đồng trong năm qua, tăng 10,3% so với năm 2021 với thu nhập từ lãi và dịch vụ (không bao gồm thu phí từ dịch vụ ngân hàng đầu tư) đều tăng trưởng mạnh.

Thu nhập từ lãi đạt 30,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu nhờ tăng trưởng danh mục tín dụng với biên lãi thuần (tính trong 12 tháng) được quản lý ở mức 5,1%. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ tăng 24,8% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 9,7 nghìn tỷ, trong đó riêng thu phí từ dịch vụ thẻ đạt hơn 1.980 tỷ đồng, tăng 83,5% so với năm trước; thu từ dịch vụ bảo hiểm tăng 12,3% đạt hơn 1.750 tỷ đồng; thu từ thư tín dụng tăng 154% đạt hơn 2.016 tỷ.

Tại thời điểm 31/12/2022, tổng tài sản của Techcombank đạt 699.000 tỷ đồng, tăng 22,9% so với năm 2021. Tổng dư nợ tín dụng đạt 14,5% theo đúng chỉ tiêu của Ngân hàng Nhà nước cấp, với danh mục tín dụng tiếp tục được chuyển dịch từ cho vay doanh nghiệp lớn sang cho vay cá nhân, giảm thiểu rủi ro danh mục và tăng hiệu quả sử dụng.

Trong cơ cấu tín dụng của ngân hàng hợp nhất, dư nợ cho vay khách hàng cá nhân tăng 40,1% so với năm 2021 và chiếm 49,1% danh mục; dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng 7,3% so với cùng kỳ, đạt 69.400 tỷ đồng; tổng dư nợ tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp lớn (bao gồm cho vay và trái phiếu) giảm 9,9%, đạt 165.600 tỷ đồng, chiếm 35,9% dư nợ tín dụng toàn Ngân hàng, giảm mạnh so với mức 44,8% của cuối năm 2021.

Tổng tiền gửi tại ngày 31 tháng 12 năm 2022 là 358.400 tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, tiền gửi có kỳ hạn đạt 225,9 nghìn tỷ đồng, tăng 44,9% so với cùng kỳ và số dư CASA đạt 132.500 tỷ đồng, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 37% trong tổng huy động vốn.

Về các chỉ tiêu an toàn, tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2022, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung-dài hạn ở mức 28,8%, thấp hơn nhiều so với giới hạn mới 34% theo quy định hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2022. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo Basel II ở mức 15,2% vào cuối năm 2022, cao hơn nhiều so với yêu cầu tối thiểu 8,0% của trụ cột I, Basel II, tăng 18 điểm phần trăm so với đầu năm 2022.

Tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2022 ở mức 0,9%, tăng nhẹ so với năm 2021, nhưng vẫn nằm trong nhóm thấp nhất toàn ngành. Tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu đạt 125%.

]]>
Chiến lược quản lý chuỗi giá trị giúp ngân hàng chủ động ứng phó rủi ro https://doanhnhandautu.com/chien-luoc-quan-ly-chuoi-gia-tri-giup-ngan-hang-chu-dong-ung-pho-rui-ro/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:40 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6668 Theo công bố kết quả kinh doanh 2022, Techcombank (HoSE: TCB) vẫn đạt kết quả ấn tượng, với tỷ lệ an toàn (CAR) theo Basel II đạt 15,2%, và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) tiếp tục ở vị thế đầu ngành, đạt 3,2%. Lợi nhuận trước thuế TCB đạt 25,6 nghìn tỷ đồng (tăng 10%).]]>
Theo công bố kết quả kinh doanh 2022, Techcombank (HoSE: TCB) vẫn đạt kết quả ấn tượng, với tỷ lệ an toàn (CAR) theo Basel II đạt 15,2%, và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) tiếp tục ở vị thế đầu ngành, đạt 3,2%. Lợi nhuận trước thuế TCB đạt 25,6 nghìn tỷ đồng (tăng 10%).
.
.

Cụ thể, thu nhập từ lãi và thu nhập từ hoạt động dịch vụ (không bao gồm thu phí từ dịch vụ ngân hàng đầu tư) của TCB tăng trưởng mạnh, đóng góp chính nâng tổng thu nhập hoạt động lên 40,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước.

Thu nhập từ lãi đạt 30,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước,

Thu nhập từ hoạt động dịch vụ tăng 24,8% so với cùng kỳ năm, đạt 9,7 nghìn tỷ. Trong đó, thu phí từ dịch vụ thẻ đạt 1.980,6 tỷ đồng (tăng 83,5% so với cùng kỳ).

Thu phí từ dịch vụ bảo hiểm (đạt 1.750,6 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm ngoái): Trong năm 2022, Techcombank đã ghi nhận mức phí bảo hiểm quy năm (APE) đạt 1,5 nghìn tỷ đồng, tăng 23,0% so với cùng kỳ năm ngoái. Chiến lược tập trung tăng cường sự thâm nhập vào phân khúc khách hàng thu nhập cao (AFF) đã giúp APE của phân khúc này tăng trưởng 57% so với cùng kỳ.

Thu từ thư tín dụng (LC) (đạt 2.016,0 tỷ đồng, tăng 154,0% N/N), tiền mặt & các khoản thanh toán (đạt 467,7 tỷ đồng, tăng 76,2% N/N). Kết quả tích cực này đến từ việc tăng cường số hóa và cá nhân hóa sản phẩm, bao gồm những giải pháp tối ưu cho ngoại hối và giao dịch, và ứng dụng hàng đầu mới cho khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ (BB). Sau 7 tháng từ ngày ra mắt, tổng khối lượng giao dịch trên nền tảng số của tập khách hàng BB tăng 33,5% so với cùng kỳ, chiếm 78,4% tổng giá trị thanh toán của phân khúc này trong năm 2022. Song song với đó, Ngân hàng tiến tới việc cung cấp các khoản vay được phê duyệt trước thông qua kênh số hóa với tổng giá trị lên tới 1 nghìn tỷ đồng, đã cải thiện đáng kể trải nghiệm của khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, và dần dần trở thành ngân hàng giao dịch chính của khách hàng.

Ông Jens Lottner, Tổng Giám đốc Techcombank cho biết: “Techcombank khép lại năm 2022 nhiều biến động, kiên định đà phát triển bền bất chấp những ảnh hưởng không thuận lợi trong một số lĩnh vực kinh doanh chính của Ngân hàng. Chúng tôi cho rằng một số thách thức này có khả năng vẫn tiếp diễn, đặc biệt trong nửa đầu năm 2023. Tuy nhiên chúng tôi tự tin vào đà tăng trưởng và khả năng duy trì thế mạnh nổi trội như chất lượng tài sản, vị thế thanh khoản và hoạt động hiệu quả, khả năng sinh lời của Ngân hàng”.

Chiến lược quản lý chuỗi giá trị giúp chủ động ứng phó, giảm thiểu rủi ro

Cuối năm 2022, tổng tài sản Techcombank đạt 699,0 nghìn tỷ đồng, tăng 22,9% so với đầu năm. Danh mục tín dụng tiếp tục được chuyển dịch từ cho vay doanh nghiệp lớn sang cho vay cá nhân, giảm thiểu rủi ro danh mục và tăng hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng.

Dư nợ cho vay khách hàng cá nhân tăng 40,1%, đạt 226,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 49,1% danh mục tín dụng của Ngân hàng (tăng từ mức 39,4% tại ngày 31 tháng 12 năm 2021). Dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng 7,3% so với cùng kỳ, đạt 69,4 nghìn tỷ đồng.

Chia sẻ tại buổi “Gặp gỡ nhà đầu tư cá nhân” ngày 02/02/2023, ông Ngô Hoàng Hà, Giám đốc cao cấp Tài chính Doanh nghiệp TCB cho biết, mảng bất động sản là một trong những mảng trụ cột của Ngân hàng. Mảng bất động sản trong quý 4/2022 chịu khó khăn tạm thời khi lãi suất tăng cao, thanh khoản co hẹp nhưng về dài hạn vẫn rất tích cực khi tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam còn thấp, tỷ lệ đáp ứng nhu cầu nhà ở chỉ 5%. TCB sẽ tiếp tục phát triển mạnh ở mảng này bên cạnh việc đa dạng hóa các mảng khác.

Để vượt qua khó khăn giai đoạn này, TCB đã thực hiện chiến lược quản lý chuỗi giá trị, tức là quản lý từ chủ đầu tư, bên thi công xây dựng cho đến khách hàng cá nhân. Điều này giúp TCB quản lý được về mặc dòng tiền nên rủi ro sẽ thấp hơn và hiểu ngay được khi nào thì doanh nghiệp bất động sản có khó khăn dòng tiền và xử lý kịp thời.

Ngoài ra, TCB chọn các khách hàng doanh nghiệp uy tín có chất lượng tài chính lành mạnh, dự án có pháp lý tốt. Đối với khách hàng cá nhân, TCB cho vay những khách hàng có thu nhập cao.

TCB cũng đã chuẩn bị các kịch bản ứng phó với biến động của thị trường. Chẳng hạn, thách thức tương tự Quý 4/2022 kéo dài trong những tháng đầu năm 2023, hay kịch bản khó khăn hơn là lãi suất tiếp tục tăng, tỷ giá biến động mạnh…. Trong cả hai kịch bản thì nợ xấu TCB đều được kiểm soát ở mức ổn định, và không ảnh hướng đến tình hình tài chính ngân hàng.

Cân bằng lợi ích sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn

Cũng theo ông Hà, khi đánh giá thời hạn trả nợ khoản huy động thì luôn dựa vào thực tế, chẳng hạn cho vay dài hạn 30 năm nhưng thực tế khách hàng trả nợ 3-5 năm.

Đối với phần huy động không kỳ hạn (CASA), có 2 nguồn: thanh toán và đầu tư.

Đối với CASA thanh toán, khách hàng thường duy trì một mức số dư trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn để thanh toán các khoản như điện, nước… Bản chất khoản này khá ổn định, duy trì trong dài hạn (PV- Hơn 80% khách hàng cá nhân duy trì CASA hơn 12 tháng).

Đối với khoản tiền gửi 1 tháng, 6 tháng hay 12 tháng, thường khách hàng không rút ra mà tái gửi lại. Điều này giúp TCB luôn duy trì được thanh khoản, đánh giá được khoảng chênh lệch giữa tài sản và huy động, đưa ra được quản lý rủi ro kịp thời nếu có.

Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa nguồn vốn, gồm huy động khách hàng trong nước và nước ngoài (huy động hơn 1 tỷ USD trong năm 2022 khoảng trung dài hạn 3-5 năm) giúp TCB đảm bảo tỷ lệ ngắn hạn cho vay trung dài hạn duy trì mức thấp (28.8%).

Xu hướng dòng tiền ổn định giúp nợ nhóm 2 sẽ chuyển sang nhóm 1

Quý 4, dư nợ nhóm 2 của TCB tăng do khách hàng có khó khăn tạm thời về dòng tiền. Tuy nhiên, theo ông Hà, với kế hoạch trả nợ mới và xu hướng dòng tiền thì TCB tin rằng khách hàng sẽ trả nợ theo đúng thời hạn mới và khoảng nợ này sẽ chuyển về nhóm 1 trong năm 2023.

Về quản lý nợ xấu, TCB làm việc với các doanh nghiệp phát triển bất động sản có tiềm lực mạnh, chủ động quản lý dòng tiền từ chủ đầu tư đến người mua cuối cùng, nên biết rõ khi nào khách hàng có dòng tiền về và trả nợ được bao nhiêu. Do đó, TCB không bị động trong việc khách hàng có trả nợ được hay không. “Điều quan trọng là Techcombank đồng hành cùng khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn này. Bên bộ phận quản lý rủi ro của Ngân hàng cũng liên tục đưa ra các kịch bản của nền kinh tế về lãi suất, thanh khoản, những ảnh hưởng toàn cầu, từ đó đưa ra phương án xử lý kịp thời”, ông Hà nói thêm.

]]>