#nhà máy lọc dầu Dung Quất – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:35:05 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #nhà máy lọc dầu Dung Quất – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Nhà máy lọc hóa dầu đang chờ cơ chế https://doanhnhandautu.com/nha-may-loc-hoa-dau-dang-cho-co-che/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:40 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2932 Giá xăng dầu thế giới biến động mạnh do nhiều yếu tố khách quan, cộng thêm nguồn cung xăng dầu trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu hiện nay và sẽ giảm xuống còn 40% vào năm 2030, khiến nhu cầu về việc có thêm nhà máy lọc dầu trở nên cấp thiết.]]>
Giá xăng dầu thế giới biến động mạnh do nhiều yếu tố khách quan, cộng thêm nguồn cung xăng dầu trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu hiện nay và sẽ giảm xuống còn 40% vào năm 2030, khiến nhu cầu về việc có thêm nhà máy lọc dầu trở nên cấp thiết.
Nhà máy lọc hóa dầu đang chờ cơ chế
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Ảnh: Đức Thanh

Chủ động một phần

Hiện Việt Nam có Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất, Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn (NSRP), cùng các nhà máy chế biến condensate (khí ngưng tụ) đã đi vào vận hành với tổng công suất 14 triệu tấn xăng dầu/năm.

Theo Bộ Công thương, con số này đáp ứng khoảng 70% nhu cầu hiện tại trong nước, phần thiếu hụt còn lại được nhập khẩu thông qua các thương nhân đầu mối xuất nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu.

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) đã đề nghị điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án Nâng cấp và Mở rộng NMLD Dung Quất lên 7,5 triệu tấn/năm. Còn Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn chưa có kế hoạch đầu tư mở rộng công suất.

Như vậy, năng lực sản xuất xăng dầu và sản phẩm hóa dầu hiện tại và thời gian trước mắt chưa đáp ứng hoàn toàn nhu cầu trong nước. Theo Bộ Công thương, ước tính tới năm 2045, Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 12 triệu tấn xăng dầu/năm và 3,5 triệu tấn sản phẩm hóa dầu/năm.

Con số thiếu hụt này theo tính toán của Petrovietnam còn lớn hơn, lên tới gần 12 triệu tấn xăng dầu ngay trong năm 2025 và tăng lên tới gần 20 triệu tấn vào năm 2030.

Bởi vậy, Petrovietnam đã đề xuất xây dựng Dự án Tổ hợp Lọc hóa dầu tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Theo đó, Dự án Lọc hóa dầu giai đoạn I với công suất 12-13 triệu tấn dầu thô/năm; 660.000 tấn condensate, LPG, Ethane/năm. Sản phẩm của nhà máy sẽ là 7-9 triệu tấn xăng dầu và 2-3 triệu tấn hóa dầu/năm.

Giai đoạn II của Dự án sẽ đầu tư bổ sung, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng sản phẩm hóa dầu lên thêm 3-5 triệu tấn xăng dầu và 5,5-7,5 triệu tấn hóa dầu/năm.

Cùng với Dự án kho dự trữ quốc gia dầu thô, sản phẩm xăng dầu sẽ có quy mô 1 triệu tấn dầu thô và 500.000 m3 sản phẩm xăng dầu/năm, Petrovietnam đã khái toán quy mô vốn đầu tư của cả Tổ hợp trong giai đoạn I là 12,5 – 13,5 tỷ USD và giai đoạn II là 4,5 – 4,8 tỷ USD.

Đề xuất này của Petrovietnam được Bộ Công thương cho là có cơ sở. “Trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, nguy cơ đứt gãy nguồn cung năng lượng, giá năng lượng tăng cao, thì việc đảm bảo an ninh năng lượng, trong đó có nguồn cung xăng dầu, nâng năng lực dự trữ dầu thô và xăng dầu quốc gia là hết sức cần thiết”, Bộ Công thương cho biết, đồng thời đề nghị Chính phủ chỉ đạo Petrovietnam tiếp tục triển khai nghiên cứu dự án, bổ sung các nội dung được các bộ, ngành góp ý kiến.

Chờ đầu tư

Dự án Tổ hợp Lọc hóa dầu và Kho dự trữ dầu thô quốc gia còn cần thêm không ít thời gian để chuẩn bị các vấn đề liên quan đến quá trình đầu tư, nên ở thời điểm này, việc gia tăng năng lực sản xuất xăng dầu trong nước có thể trông chờ nhất là ở Dự án Nâng cấp và Mở rộng NMLD Dung Quất.

Báo cáo với Đoàn công tác của Chính phủ ngày 1/1/2023, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) – đơn vị quản lý NMLD Dung Quất cho hay, Nhà máy có tổng mức đầu tư khoảng 3 tỷ USD, công suất 6,5 triệu tấn/năm và đã vào hoạt động từ năm 2010.

Trong những tháng gần đây, khi thị trường xăng dầu quốc tế có nhiều biến động, Nhà máy đã có những lúc nâng công suất vận hành lên mức 112%, vượt 9% công suất so với kế hoạch vận hành trung bình năm là 103%.

Petrovietnam đang đề xuất Dự án Nâng cấp và Mở rộng NMLD Dung Quất với tổng vốn đầu tư khoảng 1,2 tỷ USD. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 168/NQ-CP ngày 29/12/2022 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó có Đề án Mở rộng và xây dựng trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia Dung Quất. 

Mong muốn đầu tư mở rộng NMLD Dung Quất không phải tới gần đây mới xuất hiện. Theo Quyết định 9016/QĐ-DKVN ngày 22/12/2014 của Petrovietnam, Dự án Dự án Nâng cấp và Mở rộng NMLD Dung Quất có tổng tiến độ thực hiện là 78 tháng tính từ ngày phát hành hồ sơ mở thầu lựa chọn nhà thầu thiết kế tổng thể (FEED) là ngày 27/4/2015, với kỳ vọng hoàn tất vào tháng 10/2021.

Tuy nhiên, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ hồi tháng 6/2018, Dự án không thuộc diện được cấp bảo lãnh Chính phủ, bởi vậy, chủ đầu tư phải xây dựng các phương án tài chính và tiếp xúc với các tổ chức tín dụng để thu xếp nguồn vốn. Dự án có quy mô đầu tư được phê duyệt trước đây là 1,8 tỷ USD, với cơ cấu 30% vốn chủ sở hữu và 70% vốn vay cũng được đề xuất 3 kịch bản là thu xếp từ các khoản vay nước ngoài, trong nước, đảm bảo bằng bảo lãnh vay vốn của Petrovietnam và khoản vay thứ cấp trực tiếp từ cổ đông Petrovietnam.

Thậm chí, BRS đã đề nghị Petrovietnam – nơi đang thay mặt Nhà nước sở hữu 92,12% vốn tại BSR, chấp thuận chủ trương cấp bảo lãnh vay vốn cho BSR để đầu tư Dự án, bao gồm cả bảo lãnh vay vốn trong nước và nước ngoài. BRS cũng đề nghị PVN chấp thuận chủ trương cho BSR vay theo hình thức sub-loan (khoản vay phụ) để đầu tư Dự án.

Tới đầu năm 2020, công tác thu xếp vốn cho Dự án vẫn chưa có gì sáng sủa.

Tháng 6/2022, Petrovietnam và BSR đã đề nghị Chính phủ cho phép điều chỉnh quy mô Dự án từ 192.000 thùng/ngày trong phương án được phê duyệt hồi năm 2014, xuống còn 171.000 thùng/ngày. Tổng mức đầu tư thay vì lên tới 1,8 tỷ USD, thì chỉ còn khoảng 1,2 tỷ USD.

Nhu cầu vốn này được tìm kiếm từ nguồn vốn chủ sở hữu được khấu hao dồn tích, lợi nhuận sau thuế hàng năm và vốn vay dưới hình thức tín dụng xuất khẩu, từ ngân hàng thương mại. Dự kiến, Dự án triển khai trong 37 tháng và sẽ hoàn thành vào quý IV/2025, vận hành thương mại quý I/2026.

Tới thời điểm hiện nay, công tác thẩm định Dự án chưa xong, nên chưa có câu trả lời rõ ràng về tương lai này.

 

Theo báo cáo của BSR ngày 1/1/2023, lợi nhuận sau thuế trong năm 2021 đạt gần 6.700 tỷ đồng, năm 2022 đạt khoảng 13.000 tỷ đồng.

Hồi cuối tháng 7/2022, báo cáo với Đoàn công tác của Quốc hội, BSR cũng cho biết, lợi nhuận sau thuế trong 6 tháng đầu năm 2022 bằng 50% lợi nhuận sau thuế của cả giai đoạn 2009 – 2020.

Còn theo Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ được BSR công bố ngày 25/7/2022, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối ở thời điểm kết thúc quý II/2022 đạt 12.177 tỷ đồng.

 

]]>
Mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất: Cần phương án cụ thể về thu xếp vốn https://doanhnhandautu.com/mo-rong-nha-may-loc-dau-dung-quat-can-phuong-an-cu-the-ve-thu-xep-von/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:31 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3464 Petrovietnam được đề nghị chỉ đạo Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) tổ chức lựa chọn nhà thầu thẩm tra Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án Nâng cấp, mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất.]]>
Petrovietnam được đề nghị chỉ đạo Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) tổ chức lựa chọn nhà thầu thẩm tra Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án Nâng cấp, mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất.
Việc nâng cấp, mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất vẫn còn nhiều vấn đề cần làm rõ	 ảnh: đức thanh
Việc nâng cấp, mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất vẫn còn nhiều vấn đề cần làm rõ.         Ảnh: Đức Thanh

Giảm quy mô để hiệu quả nhanh

Dự án Nâng cấp mở rộng Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Văn bản 2579/TTg-KTN vào ngày 16/12/2014; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) phê duyệt dự án tại Quyết định 9016/QĐ-DKVN ngày 22/12/2014; Ban Quản lý KKT Dung Quất cấp Giấy chứng nhận đầu tư số 65201000123 ngày 24/12/2014.

Mục tiêu của dự án khi đó là nâng công suất chế biến từ 148.000 thùng/ngày (tương đương 6,5 triệu tấn/năm) lên 192.000 thùng/ngày (tương đương 8,5 triệu tấn/năm); nâng cao độ linh hoạt trong lựa chọn nguyên liệu dầu thô đầu vào và mang lại hiệu quả cho hoạt động của nhà máy; sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn Euro V; đáp ứng tiêu chuẩn môi trường theo lộ trình bắt buộc; đáp ứng nhu cầu các sản phẩm lọc – hóa dầu trong nước…

Tiến độ thực hiện được đưa ra là phê duyệt dự án đầu tư vào quý IV/2014, đấu thầu ký hợp đồng thực hiện thiết kế tổng thể FEED và hợp đồng bản quyền công nghệ vào quý II/2015; lựa chọn nhà thầu EPC từ quý IV/2016 đến quý III/2017, triển khai thực hiện hợp đồng từ quý IV/2017 đến quý III/2021; đưa vào vận hành trước năm 2022. Các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư theo quy định hiện hành.

Sau một thời gian triển khai, tổng vốn giải ngân đến cuối tháng 11/2022 là hơn 1.660 tỷ đồng.

Petrovietnam cũng đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho dự án được áp dụng cơ chế thuế thu nhập doanh nghiệp như dự án mới với BSR sau khi hoàn thành dự án với mức thuế 10% trong 30 năm, trong đó 4 năm đầu áp dụng mức thuế suất 0% kể từ khi có thu nhập chịu thuế, áp dụng mức thuế 5% trong 9 năm tiếp theo. 

Dẫu vậy, Dự án cũng đã được BSR xin điều chỉnh quy mô công suất, thiết kế, cấu hình công nghệ, nhằm tối ưu chi phí đầu tư, đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội. 

Theo đó, do nguồn nguyên liệu đầu vào có sự thay đổi, giá gói thầu EPC tăng, làm cho tổng mức đầu tư tăng, dẫn tới đầu tư không có hiệu quả. Cũng trên cơ sở nghiên cứu cấu hình công nghệ, phương án hỗn hợp dầu thô Azeri BTC – ESPO với tỷ trọng mà BSR đưa ra sẽ giúp chi phí đầu tư thấp hơn, tăng tính khả thi trong triển khai, đảm bảo được mục tiêu nâng cấp chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn Euro V, tăng được tỷ lệ sản phẩm hóa dầu phù hợp với xu hướng chuyển dịch năng lượng.

Với công suất mới là 171.000 thùng dầu/ngày, tổng mức đầu tư cũng giảm từ 1,813 tỷ USD xuống còn 1,257 tỷ USD và nhà đầu tư cho là phù hợp với khả năng thu xếp vốn của mình.

Ở quy mô mới, tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn cũng có sự thay đổi. Cụ thể, tổng vốn đầu tư sẽ khoảng 31.240 tỷ đồng (24.858 đồng/USD) và nguồn vốn đầu tư cần thu xếp là 27.299 tỷ đồng, sau khi đã trừ thuế VAT được hoàn và chi phí đã thực hiện. Trong số này, vốn chủ sở hữu là 10.920 tỷ đồng, vốn vay là 16.379 tỷ đồng. Dự án điều chỉnh dự kiến đưa vào vận hành quý I/2028, sau 37 tháng thi công.

Còn nhiều câu hỏi

Trong góp ý của mình, Bộ Khoa học và Công nghệ cho hay, năm 2017, đã cấp 7 giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ cho 7 phân xưởng công nghệ bản quyền của Dự án Nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất đã được phê duyệt. Vì vậy, chủ đầu tư cần làm rõ trong 7 hợp đồng chuyển giao bản quyền công nghệ này, hợp đồng nào tiếp tục triển khai hay chấm dứt không thực hiện, hoặc có thay đổi, bổ sung gì so với điều khoản đã ký kết.

Ngoài ra, các hợp đồng này được ký tầm tháng 6, tháng 7/2016 và có thời hạn là 7 năm. Như vậy, nếu các bên có gia hạn sửa đổi, bổ sung thì cần phải gửi hồ sơ để Bộ Khoa học và Công nghệ có điều chỉnh.

Ngoài ra, ở Dự án điều chỉnh sau nâng cấp mở rộng không còn sản phẩm dầu FO, trong khi lại chưa làm rõ phân xưởng sản xuất dầu FO hiện hữu sẽ giải quyết ra sao.

Ủng hộ việc điều chỉnh quy mô nâng cấp, mở rộng, nhưng Bộ Công thương đã lưu ý câu chuyện cung – cầu dầu thô trên thế giới và giá năng lượng thế giới đã có những biến động do khủng hoảng Nga – Ukraine, nên vấn đề nguồn dầu thô đầu vào cho NMLD Dung Quất hoạt động sau khi nâng cấp, mở rộng cần được đánh giá đầy đủ, thận trọng và kỹ lưỡng trên tất cả các mặt từ giá, phương thức vận chuyển, giao dịch – thanh toán lẫn bảo hiểm.

Đối với việc thu xếp vốn, từ năm 2018 (thời điểm cổ phần hóa) đến năm 2020, BSR lãi luỹ kế là 345,77 tỷ đồng (khoảng 15 triệu USD), chỉ đáp ứng khoảng 2,7% nhu cầu vốn chủ sở hữu của Dự án, dẫn tới việc thu xếp vốn không đảm bảo.

Vì vậy, Bộ Công thương cũng yêu cầu BSR làm rõ hơn phương án phân phối lợi nhuận huy động cho dự án. Với nguồn vốn vay, cần làm việc chi tiết hơn với các tổ chức tài chính để đảm bảo tính khả thi của việc cho vay vốn.

Liên quan đến việc thu xếp vốn vay, theo dự kiến của BSR, nhu cầu vốn vay cho dự án để đáp ứng tỷ lệ 60% là 658,92 triệu USD, tương đương 15.485 tỷ đồng với tỷ giá 23.500 đồng/USD. Hiện BSR đã được 4 tổ chức tín dụng trong và ngoài nước bày tỏ sự quan tâm là KooKmin Bank, BIDV, Bangkok Bank và OCBC Bank.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính cũng lưu ý, BSR cần làm việc với các tổ chức tín dụng để có văn bản chấp thuận chính thức cho vay, điều khoản về lãi suất, thời gian cho vay và nhà đầu tư cần cập nhật, chính xác hóa lại thông tin về chi phí đầu tư thực tế và các thông số có liên quan khác.

Ngoài ra, trên cơ sở cân đối dòng tiền trả nợ tổng thể của BSR trong thời gian hợp đồng tín dụng giai đoạn 2026-2036 có tỷ số dòng tiền trả nợ đạt 1,34 lần trở lên, dự án được đánh giá là có dòng tiền cân đối đủ khả năng trả nợ.

Thậm chí, với điều kiện thị trường thuận lợi của năm 2022, kết quả kinh doanh tốt càng hỗ trợ BSR tìm kiếm, đàm phán với các bên cho vay để có phương án vay phù hợp.

Rà soát chi phí

Bộ Tài chính cũng cho hay, theo báo cáo tài chính riêng lẻ đã được kiểm toán của BSR, tại thời điểm 31/12/2021, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu là 0,74, nhỏ hơn 1; tiền và các khoản tương đương tiền là 16.314 tỷ đồng.

Tổng nguồn vốn là 65.476 tỷ đồng (nợ phải trả là 27.838 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 37.638 tỷ đồng), lợi nhuận kế toán trước thuế là 7.032 tỷ đồng. Tổng các khoản đầu tư dài hạn là 20.208 tỷ đồng, bao gồm tài sản cố định là 18.849 tỷ đồng, tài sản dở dang dài hạn là 1.203 tỷ đồng và đầu tư tài chính dài hạn là 156 tỷ đồng.

Trong khi đó, tổng nguồn lực dài hạn của BSR là 39.919 tỷ đồng (gồm nợ dài hạn là 2.281 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 37.638 tỷ đồng).

Như vậy, tại thời điểm 31/12/2021, nguồn lực dài hạn còn lại để đầu tư các dự án khác là 19.711 tỷ đồng.

Với nhu cầu vốn đầu tư dài hạn thực hiện Dự án điều chỉnh là 1.199 triệu USD (do đã khấu trừ 57,6 triệu USD thực hiện giải ngân cho dự án thời gian qua), tương đương 28.184 tỷ đồng (tỷ giá 23.500 đồng/USD), nếu thu xếp được vốn vay là 658,92 triệu USD và sử dụng lợi nhuận sau thuế giai đoạn 2021-2025 khả thi với số tiền 6.855 tỷ đồng, thì nguồn vốn cần thu xếp để thực hiện dự án vẫn còn thiếu khoảng 7.393 tỷ đồng. Vì vậy, rất cần có phương án cụ thể về thu xếp vốn để có thể triển khai dự án.

]]>