#môi trường kinh doanh – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Mon, 04 Aug 2025 02:09:07 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #môi trường kinh doanh – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Hải Phòng điều chỉnh kịch bản tăng trưởng để đạt mục tiêu kinh tế https://doanhnhandautu.com/hai-phong-dieu-chinh-kich-ban-tang-truong-de-dat-muc-tieu-kinh-te/ Mon, 04 Aug 2025 02:09:01 +0000 https://doanhnhandautu.com/hai-phong-dieu-chinh-kich-ban-tang-truong-de-dat-muc-tieu-kinh-te/

Trong 6 tháng đầu năm 2025, thành phố Hải Phòng đã nổi lên như một cực tăng trưởng chiến lược, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Với quyết tâm nối dài chuỗi tăng trưởng kinh tế 2 con số, Hải Phòng đang tập trung gỡ bỏ các rào cản, huy động tối đa các nguồn lực để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra.

6 tháng năm 2025, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trên địa bàn TP Hải Phòng đạt 209.668 tỷ đồng, tăng 11,2% so với cùng kỳ
6 tháng năm 2025, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trên địa bàn TP Hải Phòng đạt 209.668 tỷ đồng, tăng 11,2% so với cùng kỳ

Năm 2024, GRDP của Hải Phòng tăng 11,01%, dẫn đầu khu vực Đồng bằng sông Hồng. Cơ cấu kinh tế của thành phố đang chuyển dịch mạnh mẽ, với công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ lực. Hạ tầng giao thông hiện đại, đồng bộ, kết nối cảng biển, hàng không, đường cao tốc, đường sắt tốc độ cao đã đưa TP Hải Phòng trở thành trung tâm logistics cấp vùng và quốc tế.

Các doanh nghiệp trao đổi, tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư tại TP Hải Phòng
Các doanh nghiệp trao đổi, tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư tại TP Hải Phòng

Trong 6 tháng năm 2025, tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn TP Hải Phòng đạt 209.668 tỷ đồng, tăng 11,2% so với cùng kỳ. GRDP khu vực phía Đông thành phố đạt 146.903,7 tỷ đồng, tăng 11,04% so với cùng kỳ năm 2024. GRDP khu vực phía Tây thành phố đạt 62.764,6 tỷ đồng, tăng 11,59%, vượt mục tiêu kịch bản đề ra.

Theo ông Hoàng Văn Thực, Chánh văn phòng UBND TP Hải Phòng, tình hình kinh tế – xã hội thành phố tiếp tục ổn định và phát triển. Một số chỉ tiêu kinh tế của thành phố tiếp tục có sự tăng trưởng so với cùng kỳ. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2024. Tổng thu ngân sách đạt trên 100.000 tỷ đồng, tăng trên 32% so với cùng kỳ năm 2024, đạt trên 68% dự toán Trung ương giao.

Để gỡ các rào cản, đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, TP Hải Phòng sẽ thường xuyên rà soát, cập nhật, điều chỉnh kịch bản tăng trưởng kinh tế để phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của thành phố. Đồng thời, ưu tiên nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo các cân đối lớn, phấn đấu ở mức tăng trưởng theo kế hoạch đề ra, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển.

TP Hải Phòng cũng tập trung chỉ đạo xây dựng, ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 226/2025/NQ-QH của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Hải Phòng. Khẩn trương hoàn thành việc thành lập Khu thương mại tự do và Khu kinh tế chuyên biệt. Cụ thể hóa 4 Nghị quyết của Trung ương về trụ cột chiến lược phát triển bao gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 59-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW.

Ông Lê Tiến Châu, Bí thư Thành ủy Hải Phòng, cho biết để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng, yêu cầu hệ thống chính trị thành phố tập trung cao độ, huy động tối đa các nguồn lực, tháo gỡ kịp thời các rào cản, tổ chức thực hiện quyết liệt và hiệu quả các nhiệm vụ đề ra, nhằm bảo đảm hoàn thành bằng được mục tiêu tăng trưởng 12,35%, góp phần giữ vững vai trò đầu tàu phát triển ở phía Bắc của đất nước.

Trong đó, hoàn thiện kế hoạch triển khai Nghị quyết số 226 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển, Đề án thành lập Khu thương mại tự do thế hệ mới, Khu kinh tế chuyên biệt. Đồng thời, tập trung rà soát, lập, điều chỉnh các quy hoạch theo quy định, tổ chức lập quy hoạch chung TP Hải Phòng và quy hoạch TP Hải Phòng mới thay thế các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Ông Nguyễn Trung Tuyên, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư xây dựng CDS, cho biết trong 6 tháng năm 2025, TP Hải Phòng đã thành lập 8 khu công nghiệp và 2 cụm công nghiệp. Điều này đã mở ra không gian phát triển rộng lớn cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, TP Hải Phòng còn triển khai mở rộng các cảng Lạch Huyện, sân bay Cát Bi, chuẩn bị các điều kiện tiến tới khởi công Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng trong năm 2025. Chúng tôi kỳ vọng, các dự án hạ tầng trọng điểm chuẩn bị khởi công, hứa hẹn tạo đột phá về kết nối giao thương. Qua đó, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp phần hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GRDP năm 2025 đạt từ 12,35% trở lên.

]]>
Môi trường kinh doanh năm 2023: Áp lực cải cách từng tháng https://doanhnhandautu.com/moi-truong-kinh-doanh-nam-2023-ap-luc-cai-cach-tung-thang/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:42 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4013 Mặc dù cải thiện môi trường kinh doanh là nhiệm vụ thường xuyên, nhưng cộng đồng doanh nghiệp vẫn chờ đợi nhìn thấy những hành động cụ thể của cơ quan thực thi.]]>
Mặc dù cải thiện môi trường kinh doanh là nhiệm vụ thường xuyên, nhưng cộng đồng doanh nghiệp vẫn chờ đợi nhìn thấy những hành động cụ thể của cơ quan thực thi.
Môi trường kinh doanh năm 2023: Áp lực cải cách từng tháng
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh phải không ngừng hoàn thiện, theo hướng đơn giản hóa, minh bạch hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ doanh nghiệp. Ảnh: Đức Thanh

Áp lực thực thi

Trước ngày 20/1/2023, các bộ, ngành, địa phương phải hoàn tất việc xây dựng, ban hành chương trình, kế hoạch hành động, các văn bản cụ thể để triển khai Nghị quyết 01/2023/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội, Dự toán Ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023. Chương trình, kế hoạch này sẽ phải đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ, tiến độ thực hiện… và sẽ được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 1/2023.

“Áp lực thực thi hẳn là điều mà các địa phương, các ngành cảm nhận được, vì Nghị quyết 01 là nghị quyết điều hành của Chính phủ, nên đòi hỏi cập nhật, báo cáo thường xuyên tình hình thực hiện”, bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Năng lực cạnh tranh và Môi trường kinh doanh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương – CIEM) nhận định.

Phải nhắc lại, sau 9 năm tồn tại độc lập với 2 phiên bản là Nghị quyết 19 và Nghị quyết 02 được Chính phủ ban hành hằng năm, lần đầu tiên, nội dung cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh được tích hợp vào Nghị quyết 01 của Chính phủ. Tuy vậy, điểm kết nối vẫn rõ nét, khi mục tiêu mà Nghị quyết 02/2022/NQ-CP đặt ra tới năm 2025 vẫn là nhiệm vụ phải làm, cùng với một số nhiệm vụ của năm 2023 được xác định thêm (gồm tăng 2 bậc chỉ tiêu quyền tài sản của Liên minh Quyền tài sản và tăng ít nhất 2 bậc về chỉ tiêu việc làm trong các ngành thâm dụng tri thức).

Nghị quyết 01/2023/NQ-CP tiếp tục nhấn mạnh 4 nhiệm vụ chính, phần lớn là các nhiệm vụ đã được đặt ra trong Nghị quyết 02 của năm 2022.

Một là, nâng cao chất lượng cải cách danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; kiến nghị đưa ra khỏi danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện với những ngành nghề có thể áp dụng biện pháp quản lý khác hiệu quả hơn; kiến nghị bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không hợp pháp, không cần thiết, không khả thi, thiếu cụ thể, khó xác định và không dựa trên cơ sở khoa học; rà soát các loại chứng chỉ hành nghề để thu gọn…; thực hiện hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển quy phạm pháp luật để đảm bảo tính minh bạch, dễ tra cứu, dễ hiểu và dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật.

Hai là, cắt giảm danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành; áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, bổ sung danh mục mặt hàng miễn, giảm kiểm tra chuyên ngành; nâng cấp, hoàn thiện và triển khai hiệu quả, thực chất thủ tục điện tử trên Công thông tin một cửa quốc gia…

Ba là, chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp; rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra để đảm bảo không trùng lặp, chồng chéo, không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường, đúng pháp luật của doanh nghiệp…

Bốn là, nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; chú trọng giải pháp tư vấn, đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp với các nội dung tái cấu trúc doanh nghiệp, tài chính, nhân sự, thị trường, quản trị rủi ro, chuyển đổi số…

Chờ giải pháp cụ thể

Thực ra, cải cách môi trường kinh doanh là nhiệm vụ thường xuyên, nên những năm trước, dù Nghị quyết 02, hay trước đó là Nghị quyết 19 được ban hành hàng năm, nhưng nguyên tắc khá rõ là mục tiêu cải cách phải thống nhất và nhiệm vụ nào chưa hoàn thành vẫn phải tiếp tục. Ở góc độ này, nhiệm vụ cần phải làm của mỗi năm sẽ là phần tiếp nối các công việc của các năm trước.

Chờ giải pháp cụ thểÁp lực thực thi hẳn là điều mà các địa phương, các ngành cảm nhận được, vì Nghị quyết 01 là nghị quyết điều hành của Chính phủ, nên đòi hỏi cập nhật, báo cáo thường xuyên tình hình thực hiện.Áp lực thực thi hẳn là điều mà các địa phương, các ngành cảm nhận được, vì Nghị quyết 01 là

– Bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Năng lực cạnh tranh và Môi trường kinh doanh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương)

Cũng chính vì nguyên tắc này, bà Thảo cho biết, Nghị quyết 02 mỗi năm có giải pháp cụ thể, với đầu việc và cơ quan chủ trì, phối hợp rõ ràng.

“Đây là nội dung chưa có trong Nghị quyết 01, nhưng lại quyết định các hành động cụ thể của cơ quan thực thi và là cơ sở để các bên như các hiệp hội doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu… thực hiện giám sát. Ví dụ, nhiệm vụ nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp sẽ không chỉ dừng lại ở việc có đường dây nóng, mà phải là hiệu quả của đường dây nóng thế nào; hay việc hỗ trợ phát triển thị trường sẽ phải nhìn nhận ở góc độ khai thác các hiệp định thương mại tự do ra sao…”, bà Thảo phân tích.

Bởi vậy, nội dung các chương trình, kế hoạch hành động mà các địa phương đang hoàn thiện theo yêu cầu của Nghị quyết 01 là mối quan tâm của các doanh nghiệp vào thời điểm này.

Ông Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam chia sẻ quan điểm này khi nói đến không gian cải cách của năm 2023, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đối mặt với không chỉ những cơn gió nghịch.

“Cơn gió nghịch chính là ngoại cảnh tác động vào nền kinh tế mà chúng ta không xoay được. Nhưng chậm trễ trong đầu tư công, trong thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán, những khó khăn trong hoạt động của doanh nghiệp không phải là cơn gió nghịch, mà là vấn đề nội tại. Nhưng đây là các vấn đề chúng ta có thể giải quyết được”, ông Bình nói.

Đáng nói là, đây chính là dư địa thúc đẩy các động lực tăng trưởng và để hạn chế, khắc chế được những tổn thất của nền kinh tế trước những cơn gió nghịch.

Nhưng dư địa này rộng hay chật, khả thi hay không lại phụ thuộc rất lớn vào các kế hoạch cụ thể của các bộ, ngành, địa phương, ở cả nội dung và tốc độ thực thi.

]]>
Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ Đổi mới xanh https://doanhnhandautu.com/viet-nam-se-duoc-huong-loi-tu-doi-moi-xanh/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:52 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4669 Bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam trao đổi với Báo Đầu tư về một số kinh nghiệm quốc tế và các khuyến nghị để Việt Nam có thể đạt được phát thải ròng bằng 0 vào giữa thế kỷ này.]]>
Bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam trao đổi với Báo Đầu tư về một số kinh nghiệm quốc tế và các khuyến nghị để Việt Nam có thể đạt được phát thải ròng bằng 0 vào giữa thế kỷ này.
Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ Đổi mới xanh
Bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam

Xin bà cho biết quan điểm cũng như đánh giá của mình về xu thế “phát triển xanh” trên thế giới hiện nay? Vấn đề môi trường được xem trọng thế nào trong quá trình phát triển kinh tế?

Tình trạng biến đổi khí hậu đang buộc các quốc gia phải tái cấu trúc nền kinh tế mạnh mẽ hơn. Mặc dù điều này có vẻ khó khăn, nhưng các cuộc khủng hoảng có thể là chất xúc tác cho sự thay đổi.

Trong thế giới “hậu Covid-19”, xu hướng phát triển ngày càng hướng tới tăng trưởng xanh. Chúng ta có cơ hội biến những thách thức hiện tại thành nền tảng cho một tương lai thịnh vượng và ổn định hơn bằng cách đầu tư vào một nền kinh tế xanh, có sức chống chịu và toàn diện ngay bây giờ.

Ví dụ, thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu thực sự lần đầu tiên – cuộc khủng hoảng xảy ra vào thời điểm chi phí năng lượng tái tạo tiếp tục giảm. Chỉ vài năm trước đây, điều này được coi là không thể, thì giờ đây đã có thể đạt được nhờ sự tiến bộ trong công nghệ và đổi mới. Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, vì vậy, giai đoạn này là thời điểm hoàn hảo để đánh giá lại quỹ đạo phát triển năng lượng hiện tại.

Môi trường và nền kinh tế có mối liên hệ với nhau. Một số người cho rằng, nền kinh tế là một tập hợp con của môi trường, vì chúng ta hoàn toàn dựa vào thiên nhiên để tồn tại. Cho dù bạn có đồng ý hay không, tôi nghĩ, điều quan trọng vẫn là phải hiểu rằng, đây không phải là một trò chơi có tổng bằng không, trong đó chỉ một bên có thể được hỗ trợ bằng chi phí của bên kia.

Một nền kinh tế xanh, giống như những gì Việt Nam đã đề ra trong Chiến lược Tăng trưởng xanh, là nền kinh tế thúc đẩy tăng trưởng dài hạn và tạo việc làm, đồng thời giải quyết các vấn đề như sức khỏe, biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học.

Ngoài việc tái cấu trúc nền kinh tế để hướng tới bền vững, chúng ta cũng đang phấn đấu đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững vào năm 2030. Quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo diễn ra vào thời điểm mà 760 triệu người trên thế giới vẫn chưa được tiếp cận điện. Tăng trưởng xanh cũng cần phải bền vững về mặt xã hội, trong đó gồm cả người nghèo, người dễ bị tổn thương,  phụ nữ, người dân sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa…

Bà đánh giá như thế nào về bức tranh môi trường ở Việt Nam và đâu là những “gam màu tối” về môi trường cần phải thay đổi?

Tôi hoan nghênh Chính phủ Việt Nam đã chủ động ứng phó trong giai đoạn chuyển tiếp này. Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu mới cung cấp một khuôn khổ rõ ràng để Việt Nam đạt được cam kết tại COP26 về mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Việt Nam cũng đã cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2022 với các mục tiêu thậm chí còn tham vọng hơn, lồng ghép kinh tế tuần hoàn vào các chiến lược phát triển của mình, ban hành Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. Than chiếm khoảng 1/3 tổng công suất lắp đặt và dựa trên các dự báo hiện tại, công suất phát điện quốc gia phải tăng gấp đôi vào năm 2030.

Theo đó, Việt Nam cần dần chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng của chính mình và xây dựng một ngành công nghiệp xanh hơn.

Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của Việt Nam cũng liên tục bị suy giảm trong hai thập kỷ qua, dẫn đến các vấn đề môi trường như ô nhiễm không khí và nước, suy giảm đa dạng sinh học và suy giảm các loài, suy thoái hệ sinh thái, mất an ninh nguồn nước và cạn kiệt tài nguyên, chưa kể việc suy giảm tổng thể những đóng góp cho phúc lợi của con người.

Việt Nam đang nỗ lực hướng đến nền kinh tế xanh cũng như thực hiện các cam kết tại COP26 để đạt được mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Vậy theo bà, trong bối cảnh bức tranh môi trường vẫn đang có quá nhiều “mảng nâu” hiện nay, Việt Nam cần triển khai một “cuộc cách mạng xanh” thế nào?

Đó là những thách thức. Quá trình này chắc chắn đòi hỏi sự chuyển đổi toàn xã hội và toàn ngành với vốn đầu tư ban đầu đáng kể.

Tiến bộ kỹ thuật trong những năm gần đây đã làm giảm chi phí của hệ thống năng lượng tái tạo đến mức có thể cạnh tranh với than, dầu và khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, năng lượng tái tạo cần nhiều vốn hơn, với chi phí ban đầu cao (dù chi phí bảo trì thấp hơn). Do đó, việc cung cấp nguồn vốn dài hạn với chi phí hợp lý là một hạn chế quan trọng trong việc chuyển đổi năng lượng.

Tài chính quốc tế có thể giúp ích, nhưng thực tế là, phần lớn vốn cần thiết cho quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ là nguồn vốn trong nước. Kết luận này dựa trên các xu hướng lịch sử, cũng như cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển.

Việt Nam đang nỗ lực hướng đến nền kinh tế xanh cũng như thực hiện các cam kết tại COP26 để đViệt Nam cần dần chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng của chính mình và xây dựng một ngành công nghiệp xanh hơn.Việt Nam cần dần chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng của chính

Trên thế giới, cả các nước có thu nhập cao và các nước đang phát triển, phần lớn vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo đến từ các nguồn trong nước. Một lý do quan trọng là tài trợ nước ngoài tạo ra nghĩa vụ ngoại tệ, có giới hạn về số lượng vốn nước ngoài – các khoản vay và đầu tư trực tiếp – các nước đang phát triển có thể thu hút mà không gặp phải các vấn đề về cán cân thanh toán.

UNDP khuyến nghị các chính phủ xem xét việc thành lập một ngân hàng khí hậu khu vực công mới, có thể phối hợp với các đối tác quốc tế và khu vực tư nhân, để đa dạng hóa các nguồn tài chính trong nước cho quá trình chuyển đổi năng lượng và xanh hóa nền kinh tế.

Điều quan trọng không kém là giao thông xanh giúp cải thiện việc di chuyển, giảm ô nhiễm không khí và nâng cao sức khỏe của người dân. Việt Nam cần một môi trường thuận lợi để tận dụng tiềm năng này, đó có thể là một trong những cơ hội lớn nhất để hỗ trợ quá trình đưa mức phát thải ròng về 0, đồng thời mang lại những lợi thế to lớn về kinh tế – xã hội.

Tương tự, sống xanh và tiêu dùng xanh vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Người tiêu dùng đang trở nên hiểu biết hơn về thị trường và có ý thức về môi trường, đặc biệt là ở các thị trường quốc tế. Họ đang yêu cầu lượng khí thải carbon thấp hơn từ các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua.

Với tất cả những điều này, tôi nghĩ, người dân và nền kinh tế  Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ quá trình “đổi mới xanh”. “Đổi mới xanh” sẽ tạo tiền đề cho quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng, đồng thời tăng tốc sản xuất năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và bảo vệ những người dễ bị tổn thương.

Để đạt được cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 cũng như chuyển đổi thành công mô hình sản xuất theo hướng phát triển xanh, Việt Nam rất cần sự hỗ trợ của quốc tế. UNDP sẽ đồng hành, hỗ trợ Việt Nam thế nào trong công cuộc này, thưa bà?

UNDP, với sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản đang thực hiện Dự án “Thúc đẩy sự chuyển đổi bền vững hướng tới phương tiện giao thông điện tại Việt Nam”.

Ở cấp quốc gia, Dự án tập trung vào việc xây dựng chính sách và giới thiệu các tiêu chuẩn. Ở cấp địa phương, chúng tôi đang thí điểm triển khai xe tải điện và xe đạp điện tại Huế.

Chúng tôi cũng đang làm nhiều việc để thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn, chẳng hạn hỗ trợ xây dựng chính sách, đào tạo doanh nghiệp và khu vực tư nhân, phát triển các mô hình dựa vào cộng đồng để giải quyết vấn đề quản lý chất thải, tìm kiếm các giải pháp sáng tạo cho ô nhiễm rác thải nhựa đại dương và ra mắt Mạng lưới kinh tế tuần hoàn, một nền tảng công – tư để thu hút các bên liên quan trên khắp Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tuần hoàn.

Ở quy mô rộng hơn, cần phải đề ra một chương trình nghị sự, trong đó, phát triển kinh tế được kết hợp với khôi phục hệ sinh thái, giữ gìn đa dạng sinh học và chống biến đổi khí hậu. Các quỹ sẽ phải được phân bổ một cách chiến lược vào các giải pháp tài chính, như thanh toán cho các dịch vụ hệ sinh thái, du lịch dựa vào thiên nhiên và đóng góp của khu vực tư nhân. Đây đều là những can thiệp mà UNDP hướng đến để thúc đẩy xu hướng phát triển xanh mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai.

Cuối cùng, cần có sự thay đổi mang tính biến đổi trên tất cả các bộ phận của xã hội và nền kinh tế để ổn định về khí hậu, ngăn chặn sự mất mát đa dạng sinh học và vạch ra con đường dẫn đến tương lai bền vững mà chúng ta mong muốn.

]]>
Khi doanh nghiệp phải kiến nghị khẩn cấp https://doanhnhandautu.com/khi-doanh-nghiep-phai-kien-nghi-khan-cap/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:27 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6148 Ngày đầu tiên của tháng 2/2023, cộng đồng doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu tại các tỉnh, thành phố lại có đơn kiến nghị khẩn cấp gửi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.]]>
Ngày đầu tiên của tháng 2/2023, cộng đồng doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu tại các tỉnh, thành phố lại có đơn kiến nghị khẩn cấp gửi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
Khi doanh nghiệp phải kiến nghị khẩn cấp

Trong đơn, nhóm doanh nghiệp viết: “Những quy định về quản lý xăng dầu chưa phù hợp, đặc biệt là các quy định ở khâu bán lẻ dẫn đến doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu thua lỗ nặng nề trong thời gian dài, từ đó làm đứt ngãy chuỗi cung ứng, thị trường bất ổn… gây ảnh hưởng đến tình trạng thiếu hụt xăng dầu”.

Đây không phải lần đầu tiên, các doanh nghiệp xăng dầu phải có đơn kiến nghị khẩn cấp kể từ đầu năm 2022, sau khi thị trường xăng dầu toàn cầu biến động vô cùng phức tạp, khó lường.

Hồi tháng 10 năm ngoái, 36 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu ở khu vực TP.HCM và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã cùng ký chung đơn kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phủ.  

Lần này, số doanh nghiệp tham gia đứng đơn trải dài khắp cả nước, nắm trên 50% tổng số cửa hàng bán lẻ xăng dầu cả nước.

Vấn đề là, những kiến nghị mà các doanh nghiệp đề cập từ trước lại tiếp tục được nhắc lại, nhưng với nhiều lo ngại hơn. Trong cuộc làm việc với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vài ngày trước, nhiều doanh nghiệp chia sẻ, họ đang bị đẩy đến chân tường, có doanh nghiệp khó cầm cự thêm…

Đây không phải là tâm tư của riêng doanh nghiệp xăng dầu. Doanh nghiệp điện cũng đang trong bối cảnh khó khăn vô cùng. Đơn cử, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã phải báo cáo Bộ Công thương về viễn cảnh không còn tiền trong tài khoản vào giữa năm nay nếu giá điện vẫn giữ nguyên như hiện tại…

Các doanh nghiệp bất động sản cũng đang ngồi trên đống lửa, khi đến thời điểm này, cho dù rất nhiều kiến nghị, đề xuất giải pháp đã được đưa ra, được đặt lên bàn bàn thảo ở rất nhiều nơi, nhiều cấp, nhưng đường hướng để các nguồn lực đang nằm trong nhiều dự án vận hành trở lại vẫn chưa rõ ràng…

Đặt trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế đang đối mặt với nhiều thách thức khó lường, thị trường thu hẹp, chi phí hoạt động sản xuất gia tăng, khả năng tiếp cận nguồn vốn khó, lãi suất cao…, sẽ dễ hiểu vì sao, các doanh nghiệp lại liên tục gửi kiến nghị, đơn thư khẩn cấp.

Trong cuộc họp Chính phủ tháng 1/2023 diễn ra ngày hôm qua (2/2), những khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp cũng tiếp tục có mặt, không chỉ ở góc độ số doanh nghiệp thành lập mới giảm, đơn hàng mới giảm, thêm doanh nghiệp cho lao động nghỉ việc… Có bộ trưởng, chủ tịch tỉnh đã phải nhắc đến tình trạng những vướng mắc về hành chính, những kiến nghị của doanh nghiệp chậm được giải quyết, coi đó như một trong những thách thức lớn của nền kinh tế trong năm nay.

Thực ra, nhìn vào các đề xuất chính sách liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp trong cuộc họp này, cũng như nhiều cuộc họp trước đó của Chính phủ, những giải pháp được Chính phủ liệt kê bao quát hầu hết các vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm, đề cập.

Có thể nhắc đến các giải pháp góp phần giảm giá đầu ra nhằm kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ điều hành tín dụng, lãi suất hợp lý, thuận lợi cho đầu tư, sản xuất – kinh doanh… Các phương án tiếp tục miễn, giảm, giãn, hoãn, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất cho doanh nghiệp, người dân; xem xét sửa đổi chính sách hỗ trợ lãi suất 2% hay sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu doanh nghiệp… cũng liên tục được nhắc đến.

Trong kế hoạch làm việc của nhiều bộ, ngành, các nội dung hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn cũng rất dày dặn, đều đặn. Chưa kể, các yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh… là nhiệm vụ thường xuyên mà Chính phủ yêu cầu thực hiện khi đưa nội dung này vào Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ.

Song, khi doanh nghiệp vẫn đang phải gửi các đơn kiến nghị khẩn cấp, thì có nghĩa, những gì mà cộng đồng doanh nghiệp cần là phải nhanh hơn, cụ thể hơn và thực tiễn hơn.

]]>
Doanh nghiệp Nhật Bản kỳ vọng môi trường kinh doanh được cải thiện hơn nữa https://doanhnhandautu.com/doanh-nghiep-nhat-ban-ky-vong-moi-truong-kinh-doanh-duoc-cai-thien-hon-nua/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:43 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6626 Trưởng đại diện JETRO Hà Nội, Takeo Nakajima kỳ vọng, môi trường kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục được cải thiện, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của DN Nhật Bản.]]>
Trưởng đại diện JETRO Hà Nội, Takeo Nakajima kỳ vọng, môi trường kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục được cải thiện, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của DN Nhật Bản.

 

akeo Nakajima, Trưởng đại diện Văn phòng JETRO
Ông Takeo Nakajima kỳ vọng, môi trường kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục được cải thiện, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của DN Nhật Bản.

Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải vừa tiếp Trưởng Văn phòng Đại diện tại Hà Nội của Cơ quan Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại trụ sở Bộ.

Ông Takeo Nakajima, Trưởng đại diện JETRO Hà Nội cho biết, kết quả cơ bản Khảo sát thực trạng các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài năm tài chính 2022 cho thấy, triển vọng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam năm 2022 tỷ lệ có lãi là 59,5% (tăng 5,2 điểm so với năm trước). 

Sự phục hồi sau đại dịch Covid-19 được cho là yếu tố hàng đầu giúp doanh nghiệp Nhật Bản đạt được kết quả này.

Xét theo ngành nghề, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế tạo có tỷ lệ kinh doanh có lãi cao nhất, tới 61,1%, tăng 3,5% so với năm 2021; ngành phi chế tạo đạt tỷ lệ 57,6%, tăng 6,1% so với năm trước.

Tỷ lệ doanh nghiệp báo lỗ là 20,8% (giảm 7.8 điểm), đây là những kết quả đáng khích lệ sau ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Nhật Bản cho biết vẫn gặp khó khăn trong việc thu mua linh kiện/nguyên vật liệu, chi phí hậu cần (logistic), giá nhân công tăng, ảnh hưởng của biến động tỷ giá… 

Theo đại diện JETRO Hà Nội, thị trường Việt Nam được đánh giá có những điểm mạnh như: tính tăng trưởng của thị trường đạt 74,1% và quy mô thị trường hiện tại đạt 46,1%, đây được coi là những lợi thế hàng đầu trong môi trường kinh doanh, kỳ vọng cao vào sự tăng trưởng của nền kinh tế và thị trường trong nước.

Thời gian tới, JETRO Hà Nội kỳ vọng, Chính phủ Việt Nam sẽ quan tâm hơn tới việc cải thiện thủ tục hành chính và các chính sách về thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam.

“Việt Nam cân nhắc mở rộng thêm các trường đào tạo nghề về các ngành công nghiệp, kỹ thuật, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn; hoàn thiện môi trường pháp lý để xúc tiến đổi mới sáng tạo; hoàn thiện hệ thống thông tin liên quan đến môi trường đầu tư của các địa phương Việt Nam”, ông Takeo Nakajima kiến nghị.

Theo Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải, sau thời gian bị ảnh hưởng bởi đại dịch đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên trong năm 2022, các doanh nghiệp Nhật Bản đã đạt được những kết quả kinh doanh khả quan. 

Việc tỷ lệ doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng kinh doanh lên đến 60% trong thời gian tới, cao nhất trong khu vực ASEAN, đây là con số đáng khích lệ đối với môi trường sản xuất kinh doanh cũng như triển vọng sản xuất kinh doanh tại Việt Nam đối với các doanh nghiệp FDI, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản.

Với những đề xuất, kiến nghị của JETRO, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho biết, thời gian tới, Bộ Công thương sẽ tiếp tục hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhật Bản, thúc đẩy tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp, đưa số lượng doanh nghiệp Việt làm nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật gia tăng.

]]>