#MB – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Jun 2025 23:58:15 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #MB – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Gói tín dụng Dream Home của MB: Hỗ trợ người trẻ hiện thực hóa giấc mơ sở hữu nhà https://doanhnhandautu.com/goi-tin-dung-dream-home-cua-mb-ho-tro-nguoi-tre-hien-thuc-hoa-giac-mo-so-huu-nha/ Sun, 08 Jun 2025 23:58:15 +0000 https://doanhnhandautu.com/?p=19901
[Gói tín dụng Dream Home của MB align=”aligncenter” width=”650″]MB hỗ trợ người trẻ mua nhà MB hỗ trợ người trẻ mua nhà[/caption]

MB tiên phong hỗ trợ người trẻ mua nhà với gói tín dụng Dream Home. Ngày 21/3/2025, Thủ tướng Chính phủ phát động phong trào hỗ trợ vay vốn mua nhà cho người trẻ, tạo cơ hội sở hữu nhà và thúc đẩy thị trường bất động sản. Nhiều ngân hàng thương mại đã giới thiệu các chương trình ưu đãi hấp dẫn cho nhóm khách hàng trẻ.

Triển khai sớm gói tín dụng hỗ trợ người trẻ mua nhà

Từ tháng 3/2024, Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) đã đi đầu trong việc triển khai “MB Dream Home” – gói tín dụng dành riêng cho khách hàng từ 23-40 tuổi. Ông Vũ Hồng Phú, Thành viên Ban điều hành MB, cho biết MB ứng dụng Big Data và AI để phân tích dữ liệu khách hàng, nhận thấy nhu cầu mua nhà của nhóm khách hàng trẻ gia tăng. Từ đó, MB thiết kế gói tín dụng chuyên biệt để đón đầu nhu cầu thị trường.

Kết quả ấn tượng sau một năm triển khai

Sau gần một năm, chương trình đã đạt được kết quả ấn tượng khi hỗ trợ gần 2.000 khách hàng, giải ngân khoảng 3.000 tỷ đồng. Gói vay này không giới hạn số lượng, giúp MB tiếp cận lượng lớn khách hàng trẻ. “MB Dream Home” góp phần thực hiện đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp giai đoạn 2021-2030.

Mục tiêu mở rộng quy mô gói tín dụng

Với những thành công bước đầu, MB đặt mục tiêu tiếp tục mở rộng quy mô “MB Dream Home” lên 10.000 – 15.000 tỷ đồng. Điều này tạo điều kiện cho người trẻ sớm hiện thực hóa giấc mơ sở hữu nhà. Sự tiên phong của MB trong việc triển khai gói tín dụng hỗ trợ người trẻ mua nhà đã khẳng định vị thế của ngân hàng trong lĩnh vực này.

]]>
MB thành lập ngân hàng 100% vốn tại Campuchia https://doanhnhandautu.com/mb-thanh-lap-ngan-hang-100-von-tai-campuchia/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:53 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2786 Ngân hàng TMCP Quân đội (MB - Mã: MBB) vừa công bố thông tin triển khai hoạt động ngân hàng 100% vốn tại Campuchia trên cơ sở chuyển đổi chi nhánh MB Campuchia.]]>
Ngân hàng TMCP Quân đội (MB – Mã: MBB) vừa công bố thông tin triển khai hoạt động ngân hàng 100% vốn tại Campuchia trên cơ sở chuyển đổi chi nhánh MB Campuchia.

Ngân hàng được thành lập có tên Ngân hàng đại chúng trách nhiệm hữu hạn MB Campuchia với thời gian khai trương hoạt động từ ngày 2/1/2023.

MB thành lập ngân hàng 100% vốn tại Campuchia

Theo bản công bố thông tin đăng ký đầu tư ra nước ngoài, MB đã đầu tư hơn 76,5 triệu USD, tương đương hơn 306,3 tỷ đồng.

Trước đó, vào giữa tháng 7/2022, MB được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận thành lập ngân hàng 100% vốn tại Campuchia trên cơ sở chuyển đổi chi nhánh MB tại Camphuchia.

Cụ thể, tên đầy đủ bằng tiếng Việt: Ngân hàng đại chúng trách nhiệm hữu hạn MB Campuchia; tên tiếng Anh: MB Cambodia Bank, Public limited Company; tên viết tắt: MBCambodia.

Địa điểm đặt trụ sở tại số 146, Đại lộ Preah Norodom, phường Tonle Basak, quận Chamkar Mon, thủ đô Phnom Penh, Vương quốc Campuchia.

Tính tới cuối quý III/2022, mạng lưới giao dịch của MB bao gồm 1 trụ sở chính, 101 chi nhánh (trong đó có 2 chi nhánh nước ngoài, 198 phòng giao dịch và 1 văn phòng đại diện tại Nga.

Ngân hàng có 6 công ty con gồm: MB AMC, Công ty chứng khoán MBS, CTCP Quản lý quỹ đầu tư (MB Capital); Công ty Tài chính TNHH MB Shinsei (MCredit); Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ MB Ageas (MBAL) và Tổng CTCP Bảo hiểm Quân đội (MIC).

Về kết quả kinh doanh, 9 tháng đầu năm 2022, MB ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt hơn 18.190 tỷ đồng, tăng gần 53% so với cùng kỳ năm trước và thực hiện gần 90% kế hoạch năm.

Tính đến 30/9/2022, tổng tài sản ghi nhận tăng 8,2% đạt 656.800 tỷ đồng. Số dư tiền gửi khách hàng giảm 2% xuống còn 377.145 tỷ đồng. Cho vay khách hàng tăng trưởng 17,2%, đạt 426.233 tỷ đồng. Nợ xấu của MB tăng 35% so với cuối năm trước, kéo theo tỷ lệ nợ xấu tăng từ 0,9% lên hơn 1%.

Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu MBB của Ngân hàng Quân đội mở phiên 5/1 ở mức 17.950 đồng/cổ phiếu, trong chiều hướng đi ngang so với những phiên liền trước.

]]>
Chất lượng tài sản ngân hàng ra sao trong năm 2023 https://doanhnhandautu.com/chat-luong-tai-san-ngan-hang-ra-sao-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:14 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5200 Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.]]>
Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Thực tế, chất lượng tín dụng trong quý III và IV/2022 cho thấy, kết quả kinh doanh nhiều ngân hàng không khả quan, khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên, dù tỷ lệ dự phòng giảm.

Chẳng hạn, tại Saigonbank, một điểm tối trong bức tranh kinh doanh năm qua của Ngân hàng là tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 chiếm gần 398 tỷ đồng trong tổng dư nợ, tăng 22% so với đầu năm. Nợ dưới tiêu chuẩn có tốc độ tăng mạnh nhất. Do đó, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,97% đầu năm lên 2,12%.

Trong năm 2022, Saigonbank trích hơn 250 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó, Ngân hàng thu được hơn 237 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 54% so với năm trước. So với kế hoạch lãi trước thuế 190 tỷ đồng cho cả năm 2022 đã vượt 25% chỉ tiêu.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Với TPBank, chất lượng nợ vay đi lùi khi tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của nhà băng này tăng 17% so với đầu năm, chiếm 1.357 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, tăng mạnh nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 và phải trích 100% dự phòng rủi ro). Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng nhẹ từ 0.82% đầu năm lên 0,84%.

Năm qua, TPBank trích gần 1.844 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, giảm 37%, do đó Ngân hàng thu về hơn 7.828 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 30% so năm trước. Nhưng nếu so với kế hoạch 8.200 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế đề ra cho cả năm, TPBank chỉ mới thực hiện được 95% mục tiêu.

Việc kiểm soát nợ xấu trong năm 2022 cũng là một thử thách lớn trước thực trạng khó khăn chung của nền kinh tế và hoạt động của các doanh nghiệp, tuy nhiên ABBank đã trích lập dự phòng cho các khoản vay. Tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của ngân hàng gần 2.366 tỷ đồng, tăng 46% so với đầu năm qua. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ 2,34% đầu năm lên 2,88%.

Chi phí hoạt động năm qua của ABBank chỉ tăng 8%, lên gần 2.043 tỷ đồng. Trong năm qua, ABBank trích ra gần 777 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó Ngân hàng chỉ thu về hơn 1.702 tỷ đồng lãi trước thuế, giảm 13% so với năm trước. So với kế hoạch 3,079 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, ABBank chỉ thực hiện được 55% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của LienVietPostBank (LPB) tăng 20% so với đầu năm qua, chiếm 3.427 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh nhất. Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,37% đầu năm lên 1,46%. Nhưng dù trong năm LPB dành ra gần 3.174 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, gấp 2,4 lần so cùng kỳ năm trước, Ngân hàng vẫn thu được gần 5.690 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 56%. Như vậy, nếu so với kế hoạch 4.800 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, LPB đã vượt 19% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của VIB tăng 22% so với đầu năm, chiếm 5.687 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 2,32% đầu năm lên 2,45%. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 23%, đạt gần 11.861 tỷ đồng. Trong năm qua, VIB dành ra gần 1.280 tỷ đồng để trích lập dự phòng rủi ro, giảm 22%. Kết quả, VIB thu được hơn 10.581 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 32%. Như vậy, VIB đã hoàn thành kế hoạch 10.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2022 đặt ra.

Ngoài ra, dù chưa chính thức công bố báo cáo tài chính nhưng hiện đã có một số ngân hàng thông báo kết quả kinh doanh năm 2022. Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2023, Vietcombank đã công bố kết quả kinh doanh năm 2022. Trong đó, về chất lượng tín dụng, ngân hàng cho biết tổng số dư nợ xấu là 7.662 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,67%. Với VietinBank, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng được kiểm soát ở mức 1,2%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu xấp xỉ 190% (tăng 10% so với năm 2021). Kết quả thu hồi nợ gốc lãi xử lý rủi ro tăng hơn 60% so với số thu năm 2021.

Còn tại BIDV, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1,96 triệu tỷ đồng, tăng 19% so với đầu năm, trong đó dư nợ tín dụng đạt 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 12.65% so với đầu năm, cao hơn mức thực hiện năm 2021 (11,8%). Tỷ lệ nợ xấu theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN được ngân hàng kiểm soát ở mức 0,9%.

Hay trước đó, tại thời điểm kết thúc 9 tháng đầu năm, báo cáo tài chính các ngân hàng đã cho thấy nợ xấu hâu hểt ngân hàng đều có xu hướng tăng mạnh. Có những nhà băng tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng vượt ngưỡng 3%. Xét về mức độ tăng trưởng, MB, ACB và Vietbank là những ngân hàng có số dư nợ xấu tăng nhanh với mức tăng 30-45% so với cùng kỳ, với số dư nợ xấu lần lượt là 4.415 tỷ đồng, 4.056 tỷ đồng và 2.456 tỷ đồng.

Tuy nhiên, Vietcombank, MB, BIDV, ACB, VietinBank, SHB, Techcombank, TPBank… là những ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, trong đó Vietcombank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên đến gần 500%.

NCB cũng là nhà băng có nợ xấu cao. Phía ngân hàng cho biết nguyên nhân nợ xấu tăng trong kỳ do ngân hàng thực hiện phân loại lại nợ xấu, nợ quá hạn theo đúng tình trạng khoản nợ theo quy định của NHNN, đặc biệt là sau khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng do dịch Covid-19 đã hết hạn vào ngày 30/6/2022.

Nhận định về nợ xấu ngân hàng năm 2022, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tức là nợ xấu của nền kinh tế, hiện nay có xu hướng tăng lên, công tác kiểm soát nợ xấu sẽ gặp khó khăn bởi dịch bệnh kéo dài, tác động có độ trễ nên sẽ ảnh hưởng lớn hơn hoạt động ngân hàng trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

NHNN cho rằng, những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể sẽ bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới, khi đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dự báo sẽ tiếp tục tăng. Thực tế, năm 2022, nợ xấu ngân hàng vẫn là thách thức khó khăn trong bối cảnh lạm phát và lãi suất tăng cao.

Giới phân tích cho rằng, trong những tháng cuối năm 2022, nợ xấu ngành ngân hàng có thể tăng thêm và tiếp tục phân hóa tùy thuộc vào tính chất tệp khách hàng cũng như các yếu tố vĩ mô như sự phục hồi kinh tế và kiểm soát lạm phát. Dự báo về nợ xấu nội bảng năm 2022, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia dự báo nợ xấu nội bảng có thể lên mức 2,3 – 2,5%. Đồng thời, nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024, quy định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan.

Chất lượng tài sản trong 2023 ra sao

Theo kết quả cuộc điều tra xu hướng tín dụng của các tổ chức tín dụng do NHNN thực hiện , dự báo 6 tháng tới và năm 2023, các tổ chức tín dụng quan ngại mặt bằng rủi ro tín dụng tổng thể tiếp tục tăng nhẹ ở hầu hết các lĩnh vực ngoại trừ một số lĩnh vực cho vay phát triển nông, lâm, thủy sản, cho vay đầu tư ứng dụng công nghệ cao, cho vay đầu tư công nghiệp hỗ trợ, cho vay công nghiệp chế biến chế tạo được kỳ vọng rủi ro giảm.

Hai lĩnh vực được dự báo vẫn tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao nhất là cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán.

Trong 6 tháng đầu năm 2023 và cả năm 2023, 61,6%- 64,6% tổ chức tín dụng dự kiến giữ nguyên tiêu chuẩn tín dụng, chỉ có 19,2%-20,2% tổ chức tín dụng dự kiến “thắt chặt nhẹ” tiêu chuẩn tín dụng tổng thể của đơn vị mình, tuy nhiên mức độ thắt chặt đã giảm so với 6 tháng cuối năm 2022 và cả năm 2022, đồng thời có 16,2-17,2% tổ chức tín dụng dự kiến “nới lỏng”.

Dự kiến “thắt chặt” chủ yếu diễn ra ở lĩnh vực “Cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản”, “Cho vay kinh doanh tài chính, ngân hàng và bảo hiểm”, khoản vay trung, dài hạn và khoản vay bằng ngoại tệ. Theo nhận định của các tổ chức tín dụng, nguyên nhân chủ yếu là do “Mức độ rủi ro của thị trường” tăng lên (“Rủi ro từ phía khách hàng”; “Rủi ro ngành nghề”) cùng với những thách thức về triển vọng kinh tế.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản được giới phân tích tài chính nhận định, không chỉ ảnh hưởng triển vọng tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu.

VDSC cho rằng, năm 2023, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục hành trình vượt bão trong chu kỳ bất động sản đi xuống cùng với triển vọng kém tích cực của xuất nhập khẩu, nhưng khả năng chống chịu của từng ngân hàng sẽ tùy thuộc vào chất lượng tài sản và mức độ thận trọng của ngân hàng trong những năm qua. Tuy nhiên, quy mô nợ xấu và chi phí tín dụng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng, dựa trên mức độ thận trọng của ngân hàng trong việc trích lập dự phòng và khả năng hồi phục tài chính của của khách hàng.

Trong khi đó, VNDirect nhận định, bên cạnh căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến việc các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về thanh khoản, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao, do USD và lãi suất tiền đồng tăng, ảnh hưởng lên khả năng trả nợ. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023.

Tuy nhiên, với các ngân hàng đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và không liên quan nhiều đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Vì thế, NHNN cho biết, tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…

Đáng chú ý, Phó thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Một trong những thách thức lớn nhất là lạm phát cao, các ngân hàng trung ương lớn trên giới như Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất chứ không chỉ dừng lại ở đó, do đó, áp lực tăng lãi suất rất cao. Với ngành ngân hàng trong nước, các ngân hàng thương mại sẵn sàng tiếp tục hy sinh lợi nhuận để giảm lãi suất, chia sẻ với doanh nghiệp, với nền kinh tế trong năm 2023.

Dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Trong đó, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.

Vì vậy, cá chuyên gia kinh tế – tài chính dự báo trong năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Tương tự, Công ty Chứng khoán SSI đánh giá, năm 2023 sẽ là năm chông gai đối với ngành ngân hàng. Bởi lẽ, khi nhìn ở góc độ trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, nhiều doanh nghiệp bất động sản bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn và tái cơ cấu cho hoạt động kinh doanh của mình.

Điều này có thể sẽ làm gia tăng rủi ro liên quan đến khả năng trả nợ của những công ty này với ngân hàng. Thêm vào đó, tổng dư nợ toàn bộ các khoản cho vay mua nhà tại các ngân hàng SSI phân tích ở mức khoảng 1,3 triệu tỷ đồng. Thế nhưng, thị trường bất động sản lại đang có xu hướng giảm giá và chưa thấy tín hiệu hồi phục.

SSI duy trì quan điểm rằng, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản trong thời gian tới. Trừ khi có các quy định đặc biệt về phân loại nợ, trích lập dự phòng cho các khoản vay,trái phiếu đáo hạn vào năm 2023 được thực hiện, nợ xấu và trích lập dự phòng sẽ là những áp lực tương đối lớn.

Ngân hàng gia tăng bộ đệm dự phòng rủi ro

Theo WiGroup, tỷ lệ nợ xấu đã tăng quý thứ 4 liên tiếp và đạt mức 1,6% toàn hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu chủ yếu đến các khoản nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) đã tăng mạnh hơn 30.000 tỷ đồng (tăng 70%) so với đầu năm 2022.

rủi ro

WiGroup cho rằng, diễn biến này dường như đã nằm trong kịch bản của các ngân hàng nhờ tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức rất cao trước đó (150% trong quý I/2022) giúp giảm đi áp lực trích lập dự phòng nếu nợ xấu tiếp tục gia tăng. Tính đến cuối quý III/2022, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã giảm xuống còn 141%.

Bức tranh nợ xấu năm 2022 của ngành ngân hàng chứng kiến sự gia tăng mạnh về số dư nợ xấu, trong đó có nợ nhóm 5. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản của ngân hàng đã bị ảnh hưởng bởi việc Thông tư 14 này hết hiệu lực.

Theo số liệu của Chứng khoán VNDirect, tỷ lệ nợ xấu trung bình của ngành tăng lên mức 1,44% vào cuối quý III/2022 từ 1,34% vào cuối quý II và 1,28% cuối năm 2021. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) trung bình của ngành đã tăng lên mức 168,7% vào cuối quý III/2022, thấp hơn so với mức 172,6% vào cuối quý II nhưng vẫn cao hơn mức 159,6% vào cuối năm 2021.

Trong khi đó, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, tỷ lệ nợ xấu chỉ nhích nhẹ sau khi nợ tái cơ cấu do Covid-19 bị chuyển nhóm nợ từ quý III/2022, sau khi thông tư 03/2021 cho phép giữ nguyên nhóm nợ. Ngoài ra, hầu hết ngân hàng đều đã trích lập đủ dự phòng cho các khoản nợ cơ cấu và nợ kéo theo, các ngân hàng còn lại chưa trích lập đủ sẽ phải đối mặt với khả năng chi phí tín dụng gia tăng đối với nợ cơ cấu trong những quý tới.

Theo kết quả kinh doanh năm 2022 mới công bố, tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu của Vietcombank đạt 465%, cao nhất toàn hệ thống ngân hàng. VietinBank cũng đã công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 245%, mức cao nhất trong các năm gần đây. Các số liệu công bố trước đó của một số ngân hàng khác như BIDV, Techcombank, ACB, MB… cũng đều cho thấy tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%.

Trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng sẽ có sự gia tăng nợ xấu và chi phí tín dụng trong vài quý tiếp theo do rủi ro từ vĩ mô thế giới ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng ngành xuất nhập khẩu cũng như triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chu kỳ đi xuống của ngành bất động sản và những rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng chiếm xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản không chỉ ảnh hưởng triển tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu. Tổng số trái phiếu doanh nghiệp sau khi loại trừ nhóm trái phiếu do ngân hàng phát hành hiện đang lưu hành là khoảng 945 nghìn tỷ đồng, trong đó 27% sẽ đáo hạn vào năm 2023 và 2024, và 12% sẽ đáo hạn vào năm 2025. Gần một phần ba số trái phiếu này nằm trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.

Tuy nhiên, con số này vẫn không bao gồm những trái phiếu đã được phân phối cho các nhà đầu tư cá nhân, nhưng có bảo lãnh thanh toán cũng như những trái phiếu hiện không có trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng vẫn sẽ chịu rủi ro tín dụng liên quan đối với những trái phiếu theo hợp đồng repo.

Đáng chú ý, nhiều chủ đầu tư bất động sản đang phải đối mặt với các khó khăn với lượng hàng tồn kho tăng lên, doanh số bán hàng giảm và chịu áp lực đáng kể về dòng tiền ngắn hạn khi một số trái phiếu sắp đến ngày đáo hạn, đặc biệt là trong giai đoạn từ tháng 12/2022 đến tháng 3/2023, kéo nợ xấu tăng. 

Do đó, các chuyên gia tài chính cho rằng, các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và ít phơi nhiễm với trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Trong đó, nhóm ngân hàng quốc doanh (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank), và một số ngân hàng tư nhân chính sách cho vay và trích lập dự phòng rủi ro thận trọng sẽ lđáp ứng tốt với các tiêu chí trên.

]]>
MB báo lãi hơn 22.700 tỷ đồng trước thuế, tỷ lệ nợ xấu trên 1% https://doanhnhandautu.com/mb-bao-lai-hon-22-700-ty-dong-truoc-thue-ty-le-no-xau-tren-1/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:56 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5412 Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý IV/2022, với lợi nhuận trước thuế lũy kế cả năm đạt hơn 22.700 tỷ đồng.]]>
Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý IV/2022, với lợi nhuận trước thuế lũy kế cả năm đạt hơn 22.700 tỷ đồng.

Trong quý IV/2022, trừ thu nhập lãi thuần vẫn tăng hơn 34%, ghi nhận hơn 9.629 tỷ đồng, song các mảng hoạt động khác của ngân hàng (dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư) đều ghi nhận sụt giảm so với cùng kỳ năm trước. 

MB báo lãi hơn 22.700 tỷ đồng trước thuế, tỷ lệ nợ xấu trên 1%

Cụ thể, lãi thuần từ hoạt động dịch vụ giảm 9%, lãi thuần từ kinh doanh ngoại hối giảm 12,7%, lãi thuần từ chứng khoán kinh doanh giảm 90%, lãi thuần từ chứng khoán đầu tư giảm 60% và lãi thuần từ hoạt động kinh doanh khác giảm 50,3%.

Trong quý IV/2022, loạt hoạt động kinh doanh ghi nhận sụt giảm thu nhập khiến lợi nhuận MB tăng trưởng âm -2,3%, ghi nhận hơn 4.573 tỷ đồng trước thếu.

Tuy nhiên, lũy kế cả năm MB lãi 22.729 tỷ đồng trước thuế, tăng 37,5% so với năm trước và đạt 111,8% kế hoạch năm. Nhờ tăng trưởng của thu nhập lãi thuần và kinh doanh ngoại hối, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng vẫn tăng 25,3% so với năm trước trong khi chi phí dự phòng rủi ro gần như không đổi là nguyên nhân giữ tăng trưởng dương cho lợi nhuận cả năm.

Cụ thể, chi phí dự phòng rủi ro cả năm qua của MB hơn 8.000 tỷ đồng, chỉ tăng 0,2% so với cả năm 2021. Nhưng riêng quý IV/2022, dự phòng rủi ro tín dụng của MB tăng đến 78,3%, với chi phí dự phòng rủi ro hơn 3.585 tỷ dồng.

Tính đến 31/12/2022, tổng tài sản của MB đạt 728.532 tỷ đồng, tăng 20% so với cuối năm 2021. Trong đó, cho vay khách hàng tăng 26,7% lên hơn 460.000 tỷ đồng. Số dư tiền gửi khách hàng tăng 15,3% đạt 443.605 tỷ đồng.

Số dư nợ xấu của ngân hàng tăng 54% lên 5.030 tỷ đồng, trong đó dư nợ nhóm 5 ở mức 2.293 tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần so với cuối năm 2021 (819 tỷ đồng), qua đó tỷ lệ nợ xấu tăng từ 0,9% lên 1,09%.

Năm 2022, cùng với sự tăng số lượng cán bộ nhân viên từ 15.178 lên 16.136 người, thu nhập bình quân tháng của nhân viên ngân hàng cũng được tăng từ 31,6 triệu đồng năm trước lên 35,2 triệu đồng, tương đương tăng 11,4%.

Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu MBB của Ngân hàng Quân Đội đang giao dịch quanh mức 19.250 đồng/cổ phiếu.

]]>
Vì sao lợi nhuận một số ngân hàng đi lùi trong quý IV/2022? https://doanhnhandautu.com/vi-sao-loi-nhuan-mot-so-ngan-hang-di-lui-trong-quy-iv-2022/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:41 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5611 Lợi nhuận một số ngân hàng vừa công bố cho thấy sự sụt giảm trong quý IV, song lũy kế cả năm qua, các ngân hàng vẫn đạt kết quả tích cực nhờ thu từ lãi và dịch vụ. ]]>
Lợi nhuận một số ngân hàng vừa công bố cho thấy sự sụt giảm trong quý IV, song lũy kế cả năm qua, các ngân hàng vẫn đạt kết quả tích cực nhờ thu từ lãi và dịch vụ.

Tại Ngân hàng Quân Đội (MB), lợi nhuận MB tăng trưởng âm trong quý IV/2022, nhưng lũy kế cả năm qua ghi nhận lãi trước thuế hơn 22.700 tỷ đồng, tăng 37,5% so với năm trước vượt 12% kế hoạch.

Cụ thể, trong quý IV/2022, loạt hoạt động kinh doanh của MB ghi nhận sụt giảm thu nhập khiến lợi nhuận Ngân hàng tăng trưởng âm. Trong kỳ, thu nhập lãi thuần của MB tăng 34%, ghi nhận trên 9,629 tỷ đồng, song thu nhập từ dịch vụ giảm 9% khi chỉ ghi nhận hơn 1.223 tỷ đồng.

Vì sao lợi nhuận một số ngân hàng đi lùi trong quý IV/2022?

Kinh doanh ngoại hối trong quý IV/2022 của MB cũng giảm gần 13% so với quý cùng kỳ. Đáng chú ý, lãi từ chứng khoán kinh doanh quý này giảm đến 90% (lũy kế cả năm giảm 36%, chỉ còn ghi nhận 141 tỷ đồng); lãi từ mua bán chứng khoán đầu tư giảm 60% trong quý cuối năm 2022 (lũy kế cả năm nhẹ 9%, chỉ còn 1.,315 tỷ đồng). 

Lãi từ hoạt động khác của ngân hàng trên cũng giảm mạnh trong quý IV/2022, với mức giảm tương đương 50% (lũy kế cả năm giảm 34%, còn 2.142 tỷ đồng), do giảm thu từ các khoản nợ đã xử lý 39% (còn 1,648 tỷ đồng). 

Thêm vào đó, MB trích 8.048 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, xấp xỉ năm trước (trong đó riêng quý IV/2022 dự phòng rủi ro tín dụng của nhà băng này tăng hơn 78% so với quý cùng kỳ).

Thế nhưng, kết quả Ngân hàng MB vẫn báo lãi trước thuế 22.729 tỷ đồng cả năm 2022, tăng 38%. So với kế hoạch 20.300 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế đặt ra cho cả năm qua, MB đã vượt 12% mục tiêu.  do đó Ngân hàng báo lãi trước thuế 22,729 tỷ đồng, tăng 38% so năm trước.

Số dư nợ xấu của MB đến cuối năm 2022 tăng 54% lên 5.030 tỷ đồng, trong đó dư nợ nhóm 5 ở mức 2.293 tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần so với cuối năm 2021 (tương đương tăng 819 tỷ đồng), qua đó tỷ lệ nợ xấu tăng từ 0,9% lên 1,09%.

Kết quả kinh doanh trong quý cuối cùng của năm 2022 tại VPBank cũng kém khả quan hơn so với 3 quý trước đó. Theo đó, lợi nhuận trước thuế quý IV/2022 của ngân hàng này chỉ đạt 1.383 tỷ đồng, giảm 47% so với cùng kỳ năm 2021.

Trong khi về thu nhập, nhiều mảng kinh doanh của VPBank, đặc biệt là hoạt động cốt lõi vẫn có tăng trưởng tích cực trong quý IV. Cụ thể, thu nhập lãi thuần của ngân hàng tăng 20,6% so với cùng kỳ và đạt 10.282 tỷ đồng, lãi từ hoạt động dịch vụ tăng 57% lên 1.881 tỷ đồng, lãi từ hoạt động khác tăng 54% lên 898 tỷ đồng. Chỉ riêng hoạt động kinh doanh ngoại hối kém khả quan (bị lỗ 340 tỷ đồng). Hoạt động mua bán chứng khoán có lãi 46 tỷ, giảm 94% so với cùng kỳ.

Nhưng nguyên nhân chủ yếu do ngân hàng tăng mạnh chi phí hoạt động và chi phí dự phòng rủi ro. Cụ thể, chi phí dự phòng quý IV/2022 của VPBank tăng 31% so với cùng kỳ lên 7.320 tỷ đồng. Nợ xấu của VPBank hợp nhất (bao gồm công ty tài chính) là 4,73%. Đối với ngân hàng riêng lẻ, Tỷ lệ này tăng nhẹ từ 1,98% năm 2021 lên 2,19%. Chi phí hoạt động tăng tới 42% lên 4.065 tỷ đồng.

Mặc dù lợi nhuận quý IV/2022 sụt giảm đáng kể, nhưng VPBank vẫn ghi nhận lợi nhuận năm 2022 tăng 47,7%, đạt 21.219 tỷ đồng trước thuế, lọt Top 5 ngân hàng có lãi cao nhất. Động lực tăng trưởng của ngân hàng chủ yếu ở những tháng đầu năm, đặc biệt là trong quý 1 ngân hàng có lợi nhuận đột biến nhờ thỏa thuận độc quyền bancassurance.

Lợi nhuận của VPBank cũng chủ yếu nhờ ngân hàng mẹ (đạt hơn 24.000 tỷ đồng trong năm qua), cho thấy kết quả kinh doanh của các công ty con, đặc biệt là công ty tài chính đi xuống rõ rệt trong năm vừa qua.

ABBank cũng vừa công bố báo cáo tài chính quý IV/2022 với lợi nhuận trước thuế lỗ 45 tỷ đồng lãi trước thuế. Theo giải trình báo cáo tài chính tại ABBank, do lạm phát và môi trường lãi suất, tỷ giá biến động đã kéo theo lợi nhuận trước thuế năm 2022 tại ngân hàng này giảm 13% so với cùng kỳ, chỉ hoàn thành 55% mục tiêu kế hoạch năm.

Mặc dù nguồn thu chính là lãi thuần tại ngân hàng này tăng 22% so với năm trước, tương ứng đạt 3.735 tỷ đồng, tuy nhiên các nguồn thu ngoài lãi lại sụt giảm với lãi từ dịch vụ giảm 34%, còn 232 tỷ đồng và lãi từ kinh doanh ngoại hối giảm 53%, còn 193 tỷ đồng.

Ngoài ra, hoạt động khác thu về khoản lãi hơn 415 tỷ đồng, tăng 62% trong khi phí hoạt động chỉ tăng 8%, lên gần 2.043 tỷ đồng.

Trong kỳ, ABBank trích ra gần 249 tỷ đồng dự phòng rủi ro, cùng với các khoản dự phòng từ những quý trước đó, ngân hàng này đã chi tổng cộng gần 777 tỷ đồng. Do đó, ABBank chỉ thu về 1.702 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, giảm 13% so với năm trước. So với kế hoạch 3.079 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, ABBank chỉ thực hiện được 55% mục tiêu.

]]>