# lạm phát – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 17 Aug 2025 23:10:32 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # lạm phát – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Kinh tế Việt Nam nửa đầu năm 2023 nhìn từ các số liệu thống kê https://doanhnhandautu.com/kinh-te-viet-nam-nua-dau-nam-2023-nhin-tu-cac-so-lieu-thong-ke/ Sun, 17 Aug 2025 23:10:29 +0000 https://doanhnhandautu.com/kinh-te-viet-nam-nua-dau-nam-2023-nhin-tu-cac-so-lieu-thong-ke/

Tình hình suy dinh dưỡng tại bang Katsina, miền Bắc Nigeria, đang diễn biến hết sức nghiêm trọng khi số liệu thống kê cho thấy ít nhất 652 trẻ em đã thiệt mạng trong nửa đầu năm 2025 do suy dinh dưỡng. Thông tin này được Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới (MSF) công bố trong một thông cáo báo chí gần đây.

MSF cho biết số trẻ em tử vong vì suy dinh dưỡng tại đây đã tăng vọt và điều này phản ánh một phần hậu quả của việc cắt giảm tài trợ từ các nhà tài trợ quốc tế, đặc biệt là từ Mỹ, Vương quốc Anh và Liên minh châu Âu. Tổ chức này đang chứng kiến những đợt cắt giảm ngân sách với quy mô lớn, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng điều trị cho trẻ em suy dinh dưỡng tại các cơ sở y tế của MSF.

Được biết, số ca suy dinh dưỡng cấp tính nặng ở trẻ em tại bang Katsina đã tăng tới 208% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 6 tháng đầu năm, các cơ sở y tế của MSF đã ghi nhận tới 652 ca tử vong. Tình trạng bất ổn an ninh nghiêm trọng tại Katsina do các hoạt động của nhóm vũ trang đã khiến hàng ngàn người dân phải rời bỏ nhà cửa, mất sinh kế và không thể tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, càng làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nhân đạo tại đây.

Trước tình hình ngày càng nghiêm trọng, chính phủ Nigeria đã phân bổ 200 tỷ naira (khoảng 130 triệu USD) trong năm nay để phần nào bù đắp sự thiếu hụt viện trợ nước ngoài cho ngành y tế. Tuy nhiên, các tổ chức nhân đạo cho rằng nguồn lực hiện tại vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng.

Trong một diễn biến liên quan, Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) đã cảnh báo rằng họ có thể sẽ phải tạm ngừng hỗ trợ lương thực và dinh dưỡng cho khoảng 1,3 triệu người tại vùng đông bắc Nigeria do nguồn viện trợ dự trữ đã cạn kiệt. Điều này càng làm dấy lên lo ngại về một cuộc khủng hoảng nhân đạo sắp xảy ra nếu không có sự can thiệp kịp thời và hiệu quả.

Các tổ chức nhân đạo đang kêu gọi cộng đồng quốc tế tăng cường hỗ trợ để giúp Nigeria vượt qua cuộc khủng hoảng này. Đồng thời, chính phủ Nigeria cũng cần có những giải pháp dài hạn để giải quyết tận gốc vấn đề suy dinh dưỡng và đảm bảo an ninh lương thực cho người dân.

Trong bối cảnh tình hình đang rất cấp thiết, các bên liên quan đang nỗ lực tìm kiếm giải pháp để giảm thiểu tác động của suy dinh dưỡng tại bang Katsina và các khu vực khác của Nigeria. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về tình hình này qua các nguồn tin cậy như MSF và WFP.

]]>
Ngân hàng Trung ương châu Âu giữ nguyên lãi suất tham chiếu ở mức 2% https://doanhnhandautu.com/ngan-hang-trung-uong-chau-au-giu-nguyen-lai-suat-tham-chieu-o-muc-2/ Thu, 07 Aug 2025 00:09:08 +0000 https://doanhnhandautu.com/ngan-hang-trung-uong-chau-au-giu-nguyen-lai-suat-tham-chieu-o-muc-2/

Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã quyết định giữ nguyên lãi suất tham chiếu ở mức 2% trong cuộc họp ngày 24/7, đánh dấu việc chấm dứt chuỗi 8 lần giảm lãi suất liên tiếp kể từ tháng 6/2024. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh Liên minh châu Âu (EU) đang tích cực đàm phán thỏa thuận thương mại với Mỹ, một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định của ECB.

Môi trường kinh tế hiện tại được ECB mô tả là rất bất ổn, đặc biệt là do căng thẳng thương mại. Lạm phát của khu vực đồng euro đã đạt mục tiêu của ECB là 2% vào tháng trước, và các quan chức của ECB cho biết nỗ lực hạ nhiệt lạm phát gần như đã hoàn tất. ECB đang hướng đến việc đưa lãi suất về mức trung tính, không kích thích và cũng không kiềm chế tăng trưởng. Tuy nhiên, ECB vẫn tỏ ra cảnh giác với các thay đổi trong triển vọng trung hạn.

Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định của ECB là khả năng đạt được thỏa thuận thương mại giữa EU và Mỹ, điều vẫn còn thiếu chắc chắn. Mỹ hiện là đối tác đầu tư và thương mại lớn nhất của EU, với kim ngạch xuất khẩu 503 tỷ euro (590 tỷ USD) hàng hóa sang Mỹ trong năm ngoái. Thuế nhập khẩu mà EU phải chịu khi bán hàng sang Mỹ hiện là 30%. Các chuyên gia dự đoán ECB có thể sẽ chờ đợi các dự báo tăng trưởng và lạm phát mới, dự kiến được công bố vào tháng 9, trước khi tiếp tục hành động.

Các cuộc đàm phán thương mại giữa EU và Mỹ đang được theo dõi chặt chẽ, không chỉ bởi tác động tiềm tàng đối với nền kinh tế mà còn bởi ảnh hưởng đến quyết định về lãi suất của ECB. Thỏa thuận thương mại có thể giúp giảm bớt căng thẳng thương mại và tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự không chắc chắn về kết quả của các cuộc đàm phán này đang khiến ECB phải cân nhắc kỹ lưỡng các bước tiếp theo.

Trong khi đó, ECB cũng đang duy trì lập trường thận trọng đối với lạm phát, đảm bảo rằng mục tiêu lạm phát ở mức 2% được duy trì ổn định. Với môi trường kinh tế đang biến động, ECB sẽ tiếp tục theo dõi sát sao tình hình và điều chỉnh chính sách phù hợp để đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng bền vững cho khu vực đồng euro.

Đối với tương lai, các chuyên gia kinh tế đang chờ đợi các thông tin cập nhật từ ECB và các dự báo kinh tế mới để có cái nhìn rõ ràng hơn về hướng đi của lãi suất và chính sách kinh tế của khu vực đồng euro. Việc ECB giữ nguyên lãi suất trong cuộc họp gần đây cho thấy sự cẩn trọng và cân nhắc kỹ lưỡng trong việc ra quyết định, phản ánh sự phức tạp của tình hình kinh tế hiện tại.

Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đang đối mặt với những thách thức lớn trong việc điều hành chính sách kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng thương mại và sự không chắc chắn về thỏa thuận thương mại giữa EU và Mỹ. Tuy nhiên, với mục tiêu ổn định kinh tế và kiểm soát lạm phát, ECB sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tương lai kinh tế của khu vực đồng euro.

]]>
Đồng Yên giảm giá gần đáy, vì sao? https://doanhnhandautu.com/dong-yen-giam-gia-gan-day-vi-sao/ Wed, 23 Jul 2025 00:01:07 +0000 https://doanhnhandautu.com/dong-yen-giam-gia-gan-day-vi-sao/

Đồng Yên Nhật tiếp tục giảm giá và đang duy trì gần mức đáy ba tháng trong bối cảnh thị trường tài chính đang hồi hộp chờ đợi cuộc bầu cử Thượng viện Nhật Bản, dự kiến diễn ra vào Chủ nhật, ngày 20 tháng 7. Sự kiện này được coi là một phép thử quan trọng cho chính phủ liên minh của Thủ tướng Shigeru Ishiba. Các cuộc khảo sát gần đây cho thấy liên minh có thể đánh mất đa số, điều này có thể dẫn đến nguy cơ bất ổn chính trị và làm gia tăng lo ngại về tình hình nợ công của Nhật Bản.

Phe đối lập đang kêu gọi tăng chi tiêu và cắt giảm thuế, điều này làm tăng thêm áp lực cho chính phủ trong việc đưa ra các chính sách phù hợp để đối phó với tình hình kinh tế hiện tại. Trong bối cảnh này, đồng Yên Nhật đã tiếp tục chịu áp lực giảm giá so với đồng USD. Vào ngày 18 tháng 7, đồng Yên giảm nhẹ và đang giữ ở gần mức thấp nhất trong hơn ba tháng. Thị trường ngày càng tin rằng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) sẽ không tăng lãi suất trong năm nay.

BoJ đã công bố dữ liệu lạm phát mới, cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn quốc tháng 6 tăng 3,3% so với cùng kỳ, giảm nhẹ so với mức 3,7% trong tháng trước. Thông tin này đã củng cố quan điểm của thị trường rằng BoJ có thể sẽ duy trì các chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, tâm lý lạc quan của thị trường toàn cầu cũng góp phần làm giảm nhu cầu trú ẩn vào đồng Yên. Những bình luận ôn hòa từ một số quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã giúp đồng USD hạ nhiệt sau khi chạm mức cao nhất trong hơn một tháng. Tuy nhiên, kỳ vọng Fed sẽ trì hoãn cắt giảm lãi suất do lạm phát Mỹ còn dai dẳng vẫn hỗ trợ đồng bạc xanh.

Trong bối cảnh hiện tại, cặp tiền tệ USD/JPY đang duy trì xu hướng tăng, phản ánh sự mất giá của đồng Yên so với đồng USD. Thị trường đang theo dõi sát sao diễn biến của cuộc bầu cử Thượng viện Nhật Bản và các chính sách tiếp theo của chính phủ để đánh giá tác động tiềm tàng đến tình hình kinh tế và tài chính của Nhật Bản.

]]>
Kinh tế 2023 và áp lực lạm phát https://doanhnhandautu.com/kinh-te-2023-va-ap-luc-lam-phat/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:38 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2273 Dù nền kinh tế đã đạt thắng lợi kép trong năm 2022, khi tăng trưởng GDP đạt ở mức cao (8,02%), lạm phát thấp (3,15%), nhưng rủi ro và áp lực lạm phát trong năm 2023 vẫn rất lớn, đòi hỏi phải thận trọng trong điều hành.]]>
Dù nền kinh tế đã đạt thắng lợi kép trong năm 2022, khi tăng trưởng GDP đạt ở mức cao (8,02%), lạm phát thấp (3,15%), nhưng rủi ro và áp lực lạm phát trong năm 2023 vẫn rất lớn, đòi hỏi phải thận trọng trong điều hành.
Kinh tế 2023 và áp lực lạm phát
Caption ảnh

Trên thực tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát luôn là mục tiêu ưu tiên trong điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong nhiều năm gần đây. Tuy vậy, với một nền kinh tế mở như Việt Nam, nguy cơ “nhập khẩu” lạm phát là rất lớn, áp lực lạm phát luôn chực chờ, thì càng cần phải thận trọng hơn trong điều hành.

Chính phủ Việt Nam, có thể nói, đã rất thành công trong điều hành giá cả thị trường để kiểm soát lạm phát trong năm 2022. Đây chính là năm mà lạm phát “càn quét” kinh tế toàn cầu, đặc biệt ở khu vực châu Âu và Mỹ.

Một vài ví dụ cụ thể: lạm phát của khu vực đồng Euro tháng 11/2022 tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2021; lạm phát của Mỹ tăng 7,1% và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ. Tại châu Á, lạm phát tháng 11/2022 của Thái Lan tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2021.

Tỷ lệ lạm phát của Hàn Quốc tăng 5%; Indonesia tăng 5,4%; Trung Quốc tăng 1,6%; Nhật Bản tăng 3,8%… Cao hơn năm 2021, thậm chí là kỷ lục trong vài chục năm qua là điều được các chuyên gia nhắc đến rất nhiều khi nói về lạm phát trên toàn cầu năm 2022.

Nhưng ngược dòng thế giới, Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát ở mức 3,15%, dù trong suốt cả năm, nền kinh tế luôn phấp phỏng lo lạm phát cao quay trở lại. Đó là một thành tựu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được nhiều định chế tài chính nước ngoài đánh giá cao.

Tuy vậy, khi năm 2023 chỉ còn cách năm 2022 một bước chân, thì nỗi ám ảnh lạm phát đã quay trở lại.

Dù về số liệu thống kê, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) bình quân chỉ tăng 3,15%, nhưng chính những người tiêu dùng mới thấy “hơi nóng” của lạm phát lớn thế nào, khi giá cả hàng hóa ngoài chợ, trong siêu thị không ngừng tăng.

Doanh nghiệp càng thấy “nóng” hơn, thậm chí là “nóng rát”, khi giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng nhanh trong năm vừa qua. Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố, Chỉ số Giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất trong năm 2022 tăng 6,79% so với năm trước. Trong đó, chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 9,88%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,53%; dùng cho xây dựng tăng 6,96%…

Thậm chí, nếu chỉ nhìn vào số liệu CPI, cũng có những điều cần phải lo. Bởi lẽ, dù tính bình quân, CPI năm 2022 của Việt Nam chỉ tăng 3,15%, nhưng so với tháng 12 năm trước, CPI vẫn tăng 4,55% – một mức khá cao. Trong đó, riêng CPI bình quân quý IV/2022 tăng 4,41% so với cùng kỳ năm trước.

Và dù Việt Nam thuộc nhóm các nước có mức lạm phát thấp so với mặt bằng chung, khi CPI tháng 12/2022 tăng 4,55% so với cùng kỳ năm trước đi chăng nữa, thì cũng vẫn cao hơn lạm phát của Nhật Bản và Trung Quốc.

Xu hướng tăng giá này cho thấy, áp lực lạm phát trong năm 2023 là hiện hữu. Hơn thế, còn rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường, lạm phát trong năm tới. Đầu tiên là việc giá cả nhiều mặt hàng đang tăng cao, có thể sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn, nhất là khi hai kỳ nghỉ Tết Dương lịch và Âm lịch cận kề.

Không những thế, điều quan trọng là bước sang năm 2023, một số biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, như giảm thuế giá trị gia tăng, giảm một số loại phí, lệ phí, giảm thuế môi trường, xăng dầu, các chính sách hỗ trợ người lao động… sẽ kết thúc. Nếu không tiếp tục được gia hạn, sẽ tác động ngay tới CPI.

Chưa kể, việc tăng lương, rồi điều chỉnh giá một số sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước quản lý, như giá điện, học phí…, vốn đang được trì hoãn, nếu được thực thi trong năm 2023 cũng sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng CPI của cả nước.

Dù áp lực lạm phát toàn cầu năm 2023 được dự báo không căng thẳng như năm 2022, nhưng ở trong nước, rất nhiều yếu tố có thể tác động đến lạm phát. Trong đó, bao gồm cả việc gói đầu tư công lên tới hơn 700.000 tỷ đồng sẽ được đưa vào nền kinh tế trong năm tới. Việc một ngân khoản lớn của Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội phải hoàn tất giải ngân trong năm 2023 cũng sẽ đổ một lượng tiền lớn vào nền kinh tế.

Không phải ngẫu nhiên mà khi quyết nghị các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội 2023, Quốc hội đã bấm nút thông qua mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức 4,5%, thay vì dưới 4% như năm 2022. Chỉ điều đó cũng cho thấy, nỗi lo lạm phát lớn chừng nào.

Nếu không thận trọng trong điều hành, “bóng ma” lạm phát sẽ ám ảnh nền kinh tế.

]]>
Đáng lo nhất là lãi suất cao và sở hữu chéo ngân hàng https://doanhnhandautu.com/dang-lo-nhat-la-lai-suat-cao-va-so-huu-cheo-ngan-hang/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:40 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3364 Lãi suất cho vay thực đang ở mức quá cao và mối nguy sở hữu chéo tích tụ hàng chục năm đang đe dọa hệ thống là hai thách thức lớn nhất với chính sách tiền tệ hiện nay.]]>
Lãi suất cho vay thực đang ở mức quá cao và mối nguy sở hữu chéo tích tụ hàng chục năm đang đe dọa hệ thống là hai thách thức lớn nhất với chính sách tiền tệ hiện nay.

Đó là nhận định của TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia khi chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư.

TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia
TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia.

Lãi suất cho vay đang quá sức doanh nghiệp

Theo ông, đâu là những thách thức lớn nhất với điều hành chính sách tiền tệ năm 2023?

Chúng ta thấy, những áp lực từ bên ngoài đang giảm dần: lạm phát toàn cầu đang giảm, USD giảm giá, kinh tế Mỹ và Trung Quốc phục hồi tốt hơn dự báo… Năm 2022, kinh tế thế giới đối mặt với nhiều bất thường, song không phải là khủng hoảng cấu trúc, mà chỉ là một “tai nạn”, nên sau khi tai nạn qua đi, tôi nghĩ, khả năng phục hồi kinh tế toàn cầu sẽ khả quan.

Thách thức lớn nhất của nền kinh tế năm 2023 nằm chính ở các yếu tố nội tại trong nước. Với chính sách tiền tệ, áp lực lạm phát, tỷ giá năm 2023 không đáng lo, song thách thức lớn nhất là lãi suất. Câu hỏi chúng ta cần phải làm rõ là tại sao lạm phát ở Việt Nam thấp, tiền đồng mất giá gần thấp nhất thế giới, song lãi suất lại ở nhóm cao nhất thế giới?

Lãi suất trong nước vọt tăng mạnh từ tháng 9/2022 đến nay sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) 2 lần tăng lãi suất điều hành, song liệu có đúng là lãi suất Việt Nam thuộc vào nhóm cao nhất thế giới, thưa ông?

Muốn biết lãi suất có cao hay không, phải nhìn vào lãi suất thực, tức là lãi suất đã trừ đi lạm phát. Lãi suất tiền gửi một năm hiện khoảng 9,4%, trừ đi lạm phát bình quân 3,15%, thì lãi suất tiền gửi thực dương hơn 6,2%. Lãi suất bình quân 12,5%/năm (kỳ hạn 1 năm), sau khi trừ đi lạm phát thì ra lãi suất thực là 9,35%/năm.

Trong khi đó, tại Mỹ, lạm phát năm 2022 ước khoảng 8%, lãi suất cho vay khoảng 4%/năm, có nghĩa là lãi suất cho vay thực tại Mỹ đang ở mức âm 4%/năm. Như vậy, so với doanh nghiệp ở Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam đang phải chịu lãi suất cao hơn 13,35%. Nếu so sánh với châu Âu, lãi suất của Việt Nam còn cao hơn.

Chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, doanh nghiệp Việt Nam đang phải kinh doanh dưới áp lực lãi suất cho vay rất ghê gớm, làm sụt giảm sức cạnh tranh, nguy cơ bị đẩy lùi ngay tại thị trường nội địa, nhường chỗ cho doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang không phải chịu mặt bằng lãi suất cao.

Quay lại nghịch lý mà ông vừa đặt ra: lạm phát ở Việt Nam thấp, tiền đồng mất giá gần thấp nhất thế giới, song lãi suất lại ở nhóm cao nhất thế giới. Tại sao lại như vậy và liệu có giải pháp nào kéo lãi suất giảm xuống không?

Lãi suất ở nước ta tăng mạnh thời gian qua không phải do lạm phát hay room tín dụng, mà là do cung tiền. Lãi suất tăng do cung tiền giảm. Vì vậy, muốn kéo lãi suất giảm, thì đồng nghĩa cung tiền phải tăng lên. Còn room tín dụng chỉ là biện pháp hành chính để chúng ta khống chế tăng trưởng tín dụng của NHNN trên nền tảng cung tiền cố định.

Năm 2022, cung tiền của Việt Nam chỉ tăng hơn 7%, trong khi tăng trưởng GDP theo giá hiện hành (GDP danh nghĩa) ước tăng 11,2%. Điều này có nghĩa là, cung tiền năm ngoái thiếu so với tăng trưởng GDP theo giá hiện hành. Nói cách khác, Việt Nam đang thiếu lượng tiền lưu thông để tăng trưởng GDP danh nghĩa.

Sở dĩ trong nửa đầu năm 2022, nền kinh tế không thiếu tiền là do năm 2021, tăng trưởng GDP danh nghĩa chỉ 4,6% (gồm 2,5% tăng trưởng GDP và 1,9% lạm phát), nhưng cung tiền lại tăng tới 11%. Cung tiền năm 2021 tăng mạnh những tháng cuối năm do NHNN tăng mua ngoại tệ, nên đã hỗ trợ cho 2 quý đầu năm 2022, giúp nền kinh tế không rơi vào tình trạng nghẽn mạch thanh khoản.

Tuy vậy, bước sang những tháng cuối năm 2022, tình trạng nghẽn mạch này đã xuất hiện. Lượng tiền năm 2022 bơm ra nền kinh tế bị hụt, không thể hỗ trợ cho năm 2023. Đây là điều NHNN cần phải tính toán sớm vì độ trễ của chính sách tiền tệ rất lớn, có thể lên tới 6 tháng đến 1 năm. Hơn nữa, vòng quay tiền tệ của Việt Nam rất thấp (năm 2022 chỉ khoảng 0,6 vòng/năm, trong khi tại Mỹ là 1,6 – 2 vòng/năm).

Ngoài ra, nên nhớ rằng, năm 2022, GDP nước ta tăng 8,02%, nhưng lượng tiền cần cho tăng trưởng kinh tế năm 2022 không phải là lớn, do dựa trên nền tảng một số quý năm 2021 tăng trưởng âm. Còn năm 2023, dựa trên nền tảng tăng trưởng mạnh của năm 2022, để tăng trưởng 6,5%, nền kinh tế cần lượng cung tiền rất lớn. Đây là điều NHNN cần tính toán kỹ và có kế hoạch chủ động.

Việc tăng cung tiền, theo ông, có đe dọa đến lạm phát năm nay?

Cung tiền tăng sẽ đẩy lạm phát tăng lên, nên NHNN phải tính toán ở mức độ hợp lý. Năm nay, Chính phủ đã trình Quốc hội chỉ tiêu lạm phát không quá 4,5%, có nghĩa là chấp nhận lạm phát cao hơn năm ngoái. Đây là “khung” thuận lợi để NHNN tăng cung tiền, giảm lãi suất.

Thực tế, tôi cho rằng, lạm phát năm nay có thể khó lên tới mức 4,5%, vì hiện nay, cầu tiêu dùng đang giảm khá nhanh trong nước. Hiện nay, doanh nghiệp đang rất khó khăn, chúng ta không thể “treo” lãi suất cao như vậy mãi được. Theo tôi, lãi suất huy động thực chỉ khoảng 2-3% là phù hợp. Có nghĩa là, lạm phát 4% thì lãi suất huy động chỉ 6-7%/năm là hợp lý. Khi đó, lãi suất cho vay không trở nên quá sức với doanh nghiệp.

Việc tăng cung tiền, theo ông, có đe dọa đến lạm phát năm nay?
Lãi suất tại Việt Nam hiện cao hơn nhiều so với mặt bằng chung trên thế giới. Ảnh: Đức Thanh

Sở hữu chéo vẫn là vấn đề đáng lo nhất

Tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng mới đây, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, mục tiêu quan trọng nhất năm 2023 là phải đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống ngân hàng. Để làm được điều này, đâu là yếu tố then chốt, thưa ông?

Muốn giữ được an ninh của hệ thống ngân hàng, điều quan trọng nhất là phải giữ được thị trường tài sản phục hồi, đồng thời cũng phải xử lý được vấn đề tồn tại lâu nay của hệ thống ngân hàng Việt Nam là sở hữu chéo.

Lâu nay, cội nguồn mọi cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Việt Nam đều chỉ có duy nhất một nguyên nhân, đó là sở hữu chéo. Tôi đã làm việc trong lĩnh vực ngân hàng cả cuộc đời và chưa thấy cuộc khủng hoảng nào xảy ra với lĩnh vực ngân hàng mà không xuất phát từ nguyên nhân này.

Phát hiện sở hữu chéo không hề đơn giản. Có hiện tượng sở hữu chéo thanh tra ngân hàng có thể nhìn thấy, song cũng có những biểu hiện thì chỉ khi cơ quan an ninh điều tra mới phát hiện ra được.

Ví dụ, có tập đoàn thành lập tới hàng trăm doanh nghiệp, cơ quan thanh tra giám sát của NHNN có thể nhìn thấy, nhưng không có chế tài để theo dõi, giám sát hết được, trong khi đây là lại là gốc rễ rủi ro an ninh tiền tệ – ngân hàng. Nếu giám sát ngân hàng không bằng “nhãn quan” an ninh, thì chúng ta sẽ còn phải chống chọi với các cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai.

Ông vừa nói, giữ thị trường tài sản là một trong các yếu tố đảm an ninh hệ thống ngân hàng. Thực tế năm 2022, những sự cố trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản khiến không ít ngân hàng khó khăn, thậm chí có ngân hàng rơi vào diện kiểm soát đặc biệt. Theo ông, chúng ta ứng xử ra sao với bất động sản thời gian tới?

Thị trường bất động sản hiện nay chưa đến mức khủng hoảng, song đang trong tình trạng “bóng xì hơi” đáng lo ngại.

Việt Nam đang thiếu nghiêm trọng nguồn cung bất động sản, muốn giải quyết, cần phải có đất (dự án, quy hoạch) và có tiền. Bên cạnh đó, quá trình hình thành dự án phải nhanh. Hiện nay, nhiều dự án mất 7-10 năm mới cấp được giấy phép xây dựng, thì chúng ta đang tự làm khó mình. Chính vì khan hiếm nguồn cung, nên thời gian qua, hệ thống đầu cơ mới vào cuộc.

Chính phủ đang có những động thái ráo riết nắn chỉnh và tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Tuy vậy, tôi cho rằng, trước mắt, cần có ngay những giải pháp để làm dịu tình hình, phục hồi lại lòng tin của các nhà đầu tư và người dân, từ đó phục hồi thị trường trái phiếu doanh nghiệp, làm dịu tình trạng nợ xấu của các ngân hàng. Theo đó, đầu tiên, cần phải thanh lọc các doanh nghiệp, dự án tốt và tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, dự án này phát triển, giống như cách Trung Quốc đang làm. Nếu những doanh nghiệp xứng đáng được hỗ trợ phục hồi, thì niềm tin của dân chúng sẽ trở lại nhanh hơn.

Tóm lại, để giải quyết tình trạng của thị trường bất động sản hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp.

Một là, tăng lượng dự án được cấp phép.

Hai là, tăng tín dụng, rót vốn hỗ trợ các doanh nghiệp tốt có khả năng phục hồi.

Hai yếu tố trên sẽ giúp thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp và chứng khoán hồi phục, nhà đầu tư lấy lại niềm tin.

Nếu đặt lên bàn cân, ông cho rằng, câu chuyện lãi suất hay an ninh tiền tệ là thách thức lớn nhất với điều hành chính sách tiền tệ năm 2023?

Hiện nay, NHNN đã tương đối vững vàng trong việc điều hành chính sách tiền tệ như thế nào để tránh lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô. Điều tôi lo ngại nhất là an ninh hệ thống ngân hàng và công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, bởi sở hữu chéo, sở hữu lũng đoạn khó nhận diện, song lại gây ra nguy cơ rất lớn cho hệ thống. Mối nguy đó tích tụ hàng chục năm nay và đang ở mức đáng báo động.

Để xảy ra tình trạng này cũng không hoàn toàn do lỗi của doanh nghiệp. Có một thực tế là, chính sách của chúng ta vẫn chưa hướng được các doanh nghiệp tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu, dài hạn, như công nghiệp hóa. Một khi chính sách chưa hướng được doanh nghiệp đầu tư vào các mục tiêu dài hạn, thì doanh nghiệp sẽ tập trung vào các mục tiêu ngắn hạn, như bất động sản, theo đó, họ sẽ phải đẻ ra hàng loạt công ty con để vay vốn ngân hàng.

Mặc dù Luật Các tổ chức tín dụng đã có quy định về cho vay với người liên quan, tránh ông chủ vay tiền cho các công ty con, song các tập đoàn lách quy định bằng việc đẻ ra hàng trăm công ty con để vay tiền. Nói cách khác, luật chúng ta đã có, song chưa làm được nhiệm vụ trinh sát, chưa nói đến “đánh trận”. Vì vậy, vấn đề an ninh tiền tệ, an toàn hệ thống phải là trọng tâm xử lý của NHNN và phải tập trung nguồn lực thật sự không chỉ năm 2023, mà còn nhiều năm tới, vì xử lý sở hữu chéo không thể hoàn thành trong 1-2 năm.

Thời gian qua, NHNN đã có nhiều nỗ lực trong thanh tra, giám sát ngân hàng, song dường như chưa thể xoay chuyển được tình thế để đáp ứng được một hệ thống ngân hàng lành mạnh, hướng được tới các mục tiêu lớn trong tương lai, như công nghiệp hóa đất nước. Theo tôi, đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng NHNN, mà cả bộ máy Chính phủ, Quốc hội phải vào cuộc mạnh mẽ hơn trong những năm tới. Chỉ khi giữ được an ninh tiền tệ, thì mới giữ được niềm tin của dân chúng, giúp cho nền kinh tế phát triển ổn định.
]]>
Tết Quý Mão không lo lạm phát https://doanhnhandautu.com/tet-quy-mao-khong-lo-lam-phat/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:29 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3485 Thông thường, tháng diễn ra Tết Nguyên đán, mặt bằng giá cả cao hơn nhiều những tháng còn lại trong năm, đặc biệt với các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. ]]>
Thông thường, tháng diễn ra Tết Nguyên đán, mặt bằng giá cả cao hơn nhiều những tháng còn lại trong năm, đặc biệt với các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.

Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế, TS. Vũ Vinh Phú (nguyên Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội), Tết Quý Mão không lo lạm phát, vì hàng hóa rất dồi dào.

Tết Quý Mão không lo lạm phát
TS. Vũ Vinh Phú (nguyên Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội)

Chỉ còn ít ngày nữa, người dân cả nước bắt đầu kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, nhưng quan sát thị trường năm nay, không khí mua sắm dường như không sôi động bằng mọi năm. Ông có nhận thấy thế không?

Người tiêu dùng Việt Nam có thói quen “đói quanh năm, no ba ngày Tết”, nên chắc chắn không hạn chế chi tiêu cho ngày Tết. Tuy nhiên, năm nay, hàng hóa rất dồi dào, chủng loại đa dạng, mẫu mã phong phú, giá cả có tăng so với ngày thường, nhưng không nhiều, nên có cảm giác hoạt động mua sắm không sôi nổi như mọi năm.

Hơn nữa, thói quen mua sắm ngày Tết đang dần có sự thay đổi. Thay vì đổ xô đến chợ dân sinh, siêu thị, cửa hàng, trung tâm thương mại vào những ngày sát Tết Nguyên đán như trước đây, bây giờ, người ta sắm Tết dần từ trước, nên ít thấy cảnh người người “tay xách, nách mang”, túi lớn, bao nhỏ khi đi sắm Tết, nên có cảm giác người dân hạn chế chi tiêu.

Như vậy sẽ không còn phải lo mặt bằng giá cả tăng vào dịp Tết, thư ông?

Ngoài yếu tố khách quan hỗ trợ việc kiểm soát giá cả hàng hóa vào dịp Tết, để bảo đảm cho người dân đón Tết Nguyên đán vui tươi, lành mạnh, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 22/CT-TTg (ngày 23/12/2022) yêu cầu ngành công thương theo dõi sát tình hình thị trường, chủ động chỉ đạo các địa phương có phương án chuẩn bị nguồn cung hàng hóa thiết yếu, các mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng tăng cao, bảo đảm chất lượng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu của người dân, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, gián đoạn nguồn hàng gây tăng giá đột biến; chủ động xử lý các biến động bất thường của thị trường.

Hiện tại, nhiều địa phương, đặc biệt là tại các trung tâm kinh tế – tài chính, đã triển khai nhiều chương trình bình ổn thị trường, kết nối cung – cầu, đưa hàng Việt về nông thôn, về khu công nghiệp, nguồn cung dồi dào, cầu tăng không quá đột biến, do dần thay đổi thói quen mua sắm, nên không lo giá cả tăng trong dịp Tết.

Không phải chỉ có Việt Nam, mà nền kinh tế nào cũng lo lạm phát quay trở lại, bởi lạm phát sẽ làm xói mòn thành quả tăng trưởng kinh tế cũng như mức sống của người dân. Vì vậy, việc kiểm soát lạm phát không được lơ là cả trước, trong và sau Tết, tránh để tình trạng giá cả tăng khi qua Tết, bởi ra Giêng, đa phần tích lũy của gia đình có thu nhập từ mức trung bình trở xuống đã chi tiêu hết, nếu giá cả tăng, đời sống người dân sẽ gặp khó khăn.

Theo ông, còn nhân tố nào khiến mặt bằng giá cả khó tăng mạnh trong dịp Tết Quý Mão?

Một trong những mặt hàng quan trọng nhất, được tiêu dùng nhiều nhất và không thể sử dụng mặt hàng khác thay thế trong mỗi dịp Tết cổ truyền là thịt lợn. Năm 2022, giá thịt lợn bình quân giảm 10,68% so với năm trước, góp phần kiểm soát được Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) ở mức 3,15%. Nếu mặt hàng này không giảm, thì CPI năm nay ít nhất cũng lên 3,51%. Trong tháng 12/2022, mặt hàng này tiếp tục giảm 1,59% so với tháng trước đó và trong những ngày đầu năm 2023, giá thịt lợn vẫn xu hướng giảm xuống còn khoảng 50.000 đồng/kg thịt hơi.

Giá thịt lợn giảm, cộng với các loại hàng hóa thiết yếu khác rất dồi dào là nhân tố rất quan trọng khiến mặt bằng giá cả Tết Quý Mão không tăng mạnh như mọi năm. Tuy nhiên, giá đầu vào chăn nuôi nói chung, nuôi lợn nói riêng năm 2022 đã tăng khá mạnh và giữ ở mức cao, với giá thịt lợn hơi 50.000 đồng/kg sẽ khiến người chăn nuôi bị thua lỗ, giỏi lắm là hòa vốn, nên sẽ lại tái diễn tình trạng “treo chuồng”, giảm đàn. Nếu việc này diễn ra phổ biến, thì ra Xuân sẽ dẫn tới thiếu nguồn cung thịt lợn, trở thành mối lo tiềm tàng trong việc kiểm soát lạm phát.

Tháng Tết Nguyên đán được ví như “tháng củ mật”, rất nhạy cảm. Theo ông, cần phải làm gì để người dân đón Tết vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm?

Nhu cầu tiêu dùng tháng Tết cao hơn rất nhiều so với các tháng còn lại trong năm chính là thời cơ cho hoạt động gian lận, buôn lậu, hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng hoành hành. Vì vậy, ngay từ trung tuần tháng 11/2022, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 19-/CT-TW về việc tổ chức Tết Quý Mão, bên cạnh yêu cầu các cấp, các ngành tăng cường công tác dự báo và quản lý thị trường, ổn định giá cả, bảo đảm cân đối cung – cầu hàng hoá, dịch vụ, bảo đảm xăng dầu, các mặt hàng thiết yếu, phải tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, bảo đảm tốt công tác an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là dịch Covid-19 vì Trung Quốc đã mở cửa lại nền kinh tế, rất nhiều người dân Trung Quốc sẽ đi du lịch Việt Nam.

Ban Bí thư cũng yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước phải kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, đầu cơ, tích trữ, đẩy giá hàng hoá tăng cao bất thường để thu lợi bất chính.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã kịp thời chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng; tập trung kiểm tra, tuần tra chặt chẽ tại các tuyến, địa bàn trọng điểm vì hàng nhập lậu, hàng giả thường có xu hướng gia tăng trong dịp Tết như chất nổ, pháo nổ, vũ khí, hàng hóa vi phạm môi trường, thuốc lá, rượu bia, gia cầm, thực phẩm…

Như ông nói, kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ phải làm quanh năm, vậy phải làm cách nào?

Ở các nước trên thế giới, hàng hóa trong siêu thị bao giờ cũng rẻ hơn ở chợ dân sinh, cửa hàng bán lẻ, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại. Đây là điều rất lạ!

Hàng hóa trong siêu thị đắt vì phải qua nhiều cửa, nhiều khâu trung gian, cứ qua mỗi cửa, mỗi khâu trung gian, giá cả lại bị đội lên, nên khi đến tay người tiêu dùng, giá cả bị đắt lên rất nhiều, mà người sản xuất không được hưởng lợi, còn người tiêu dùng bị “móc túi”. Thu nhập của người dân càng ngày càng được cải thiện, thói quen mua sắm đã và đang thay đổi mạnh mẽ, thay vì “ra chợ”, người ta vào siêu thị, đặc biệt là người dân đô thị và giới trẻ. Vì vậy, phải cắt giảm tối đa khâu trung gian, làm sao siêu thị phải là đầu tàu dẫn dắt thị trường, chứ không phải ngược lại, thì việc kiểm soát mới có hiệu quả.

Hàng hóa sản xuất trong nước, từ hàng tiêu dùng, hàng điện máy cao cấp, đồ gia dụng đến hàng nông sản rất dồi dào, phong phú, đa dạng và giá cả rất phải chăng, nhưng siêu thị lại thích bán hàng nhập khẩu vì được chiết khấu cao, lợi nhuận lớn hơn so với hàng sản xuất trong nước. Chúng ta đang thực hiện phong trào “Người Việt ưu tiên sử dụng hàng Việt”, vậy cần phải có quy định siêu thị bắt buộc bán hàng sản xuất trong nước với tỷ lệ tối thiểu là bao nhiêu thì người tiêu dùng mới có cơ hội mua hàng giá rẻ hơn hàng nhập khẩu, đồng thời tạo động lực thúc đẩy sản xuất trong nước.

]]>
Điểm sáng kinh tế và triển vọng nâng hạng là động lực hút dòng tiền https://doanhnhandautu.com/diem-sang-kinh-te-va-trien-vong-nang-hang-la-dong-luc-hut-dong-tien/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:54 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4601 Cả nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn tăng trưởng cao trong ít nhất 5 năm tới. Nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ không bỏ qua cơ hội này]]>
Cả nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn tăng trưởng cao trong ít nhất 5 năm tới. Nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ không bỏ qua cơ hội này

Tăng trưởng EPS có thể về 1 con số trong 2023, trở lại 2 con số từ 2024

Việt Nam nằm trong nhóm các nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình khoảng 6,5%/năm vào giai đoạn trước dịch COVID-19. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2021-2025 ở mức 6,5%-7%/năm được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng dù đã bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 trong năm 2021, tuy nhiên, VinaCapital dự báo, hoàn toàn có thể vẫn được duy trì trong giai đoạn 2023-2025.

Tăng trưởng kinh tế cao sẽ tích cực cho hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong năm 2023, kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết có thể bị ảnh hưởng bởi tăng trưởng chậm lại của xuất khẩu, tiêu dùng và áp lực lãi suất vẫn còn cao. Dự báo tăng trưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) của chỉ số VN Index có thể về mức một con số.

Tuy nhiên, từ năm 2024, khi áp lực lạm phát không còn, các ngân hàng trung ương trên thế giới có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích kinh tế, đồng thời các khó khăn và thách thức trong nội tại của nền kinh tế Việt Nam đã được giải quyết, tăng trưởng EPS của thị trường chứng khoán nhiều khả năng sẽ quay trở lại mức hai con số. Đầu tư cơ sở hạ tầng vẫn là trọng tâm ưu tiên của Chính phủ trong nhiều năm tới và sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế trong dài hạn.

Vào tháng 7/2022, Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 86/NQ-CP về phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, có nội dung quan trọng là khẩn trương triển khai các biện pháp cần thiết để nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, Sở giao dịch chứng khoán và các công ty chứng khoán đang tiến hành chạy thử hệ thống giao dịch mới KRX. Đây là hệ thống có thể đáp ứng được các yêu cầu về triển khai sản phẩm mới, rút ngắn thời gian giao dịch, giúp thị trường chứng khoán Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về nâng hạng lên thị trường mới nổi.

Theo VinaCapital, điểm sáng về kinh tế của Việt Nam trong 3-5 năm tới cùng triển vọng về nâng hạng thị trường chứng khoán sẽ là động lực quan trọng để thu hút dòng tiền của nhà đầu tư cả trong lẫn ngoài nước. Quy mô của thị trường chứng khoán sẽ còn mở rộng nhờ vào thanh khoản tăng lên và vẫn còn nhiều doanh nghiệp có khả năng niêm yết mới trong những năm tới (cả doanh nghiệp tư nhân và cổ phần hóa hoặc thoái vốn doanh nghiệp nhà nước). 

Cả nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn tăng trưởng cao trong ít nhất 5 năm tới và các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ không bỏ qua cơ hội này, VinaCapital nhận định.

Sự hấp dẫn từ định giá P/E VN-Index thấp hơn 30% so với các thị trường mới nổi trong khu vực Asean

VinaCapital cho rằng, định giá hấp dẫn của thị trường chứng khoán. Vào thời điểm cuối năm 2022, chỉ số VN Index đang được giao dịch ở mức P/E cho năm 2023 khoảng 10 lần, thuộc vào vùng định giá rẻ nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Mức P/E này cũng thấp hơn khoảng 30% so với các thị trường mới nổi trong khu vực ASEAN, trong khi trong giai đoạn trước 2022, mức chiết khấu của thị trường Việt Nam trung bình chỉ khoảng 15%. Các nhà đầu tư nước ngoài đã thấy được sự hấp dẫn này và đã mua ròng khoảng 1,3 tỷ USD trong tháng 11 và 12/2022. 

Bên cạnh định giá hấp dẫn, VinaCapital cũng nêu ra các yếu tố dự báo sẽ tác động tích cực tới thị trường năm 2023, gồm lạm phát, lãi suất, tỷ giá, đầu tư công, việc Trung Quốc mở cửa trở lại.

Cụ thể, lạm phát toàn cầu nhiều khả năng đã qua đỉnh. Chỉ số hàng hóa toàn cầu của Bloomberg đã lập đỉnh vào tháng 6/2022 và đã giảm khoảng 16% vào thời điểm cuối năm 2022. Lạm phát của Mỹ cũng lập đỉnh 9,1% vào tháng 6/2022, từ đó bắt đầu giảm dần theo xu hướng tháng sau thấp hơn tháng trước.

Các ngân hàng trung ương sẽ bớt quyết liệt hơn trong chính sách thắt chặt tiền tệ: Trong năm 2022, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất 7 lần, từ mức 0%-0,25% lên mức 4,25%-4,5%. Dự báo Fed có thể sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong năm 2023 nhưng mức tăng sẽ ít hơn nhiều so với năm 2022 do áp lực về lạm phát đã giảm xuống. Về tác động đối với thị trường chứng khoán, việc tăng lãi suất trong năm 2023 đã ít nhiều được phản ánh vào giá cổ phiếu.

Áp lực về lãi suất và tỷ giá trong nước đã giảm đáng kể. Cụ thể lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã giảm về dưới 5,0% vào cuối năm 2022. Cũng trong tháng 12/2022, các tổ chức tín dụng đã thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tối đa 9,5% cho tất cả các kỳ hạn, trong khi trước đó, có một số ngân hàng nhỏ đã đẩy lãi suất huy động lên mức 11-12%. Với xu hướng đồng USD yếu đi kể từ tháng 9/2022 (chỉ số DXY giảm 9% kể từ tháng 9/2022 đến cuối năm 2022), áp lực về tỷ giá đã giảm đáng kể. Tỷ giá USD/VND đã giảm từ khoảng 24.900 đồng/USD trong tháng 11/2022 xuống còn khoảng 23.600 đồng/USD vào cuối năm 2022. Tiền đồng được kỳ vọng sẽ được tiếp tục hỗ trợ bởi dòng vốn từ đầu tư nước ngoài và thặng dư thương mại của Việt Nam.

Bên cạnh đó, đầu tư công được đẩy mạnh trong năm 2023. Quốc hội đã thông qua kế hoạch đầu tư công năm 2023 với tổng vốn trên 700.000 tỉ đồng, tăng khoảng 25% so với kế hoạch năm 2022 và khoảng 61% so với số ước thực hiện năm 2022. Chính phủ đang rất quyết liệt trong việc đẩy nhanh tiến độ các dự án cơ sở hạ tầng. Đây là một động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế năm 2023.

Thêm vào đó, việc việc Trung Quốc chấm dứt chính sách zero-Covid và mở cửa trở lại nền kinh tế sẽ tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực du lịch. Vào giai đoạn trước dịch COVID-19, khách Trung Quốc chiếm khoảng gần 1/3 khách quốc tế đến Việt Nam. Ngoài ra, việc Trung Quốc mở cửa trở lại nền kinh tế sẽ giúp giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời sẽ thúc đẩy xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc, nhất là đối với các sản phẩm nông nghiệp.

Dù vậy, VinaCapital đánh giá, năm 2023, nhiều sự kiện tiêu cực đã được phản ánh vào giá cổ phiếu, một số yếu tố đang trở nên tốt lên, đồng thời xuất hiện những yếu tố tích cực mới cho năm 2023. Định giá của thị trường chứng khoán đang ở vùng thấp trong 10 năm trở lại đây, hấp dẫn cho đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, vẫn còn một số thách thức, trở ngại cho thị trường chứng khoán trong ngắn hạn.

]]>
Duy trì giá cả hàng hoá, dịch vụ ổn định sau Tết Nguyên đán Quý Mão https://doanhnhandautu.com/duy-tri-gia-ca-hang-hoa-dich-vu-on-dinh-sau-tet-nguyen-dan-quy-mao/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:20 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5120 Theo Bộ Tài chính, đối với tháng 2 và quý I năm 2023, cần tiếp tục theo dõi sát diễn biến cung cầu thị trường, giá cả các hàng hóa, dịch vụ thiết yết, thực hiện kiểm soát chặt chẽ và bình ổn giá cả đối với mặt hàng dịch vụ vui chơi, giải trí, ăn uống, đi lại phục vụ dịp lễ, tết.]]>
Theo Bộ Tài chính, đối với tháng 2 và quý I năm 2023, cần tiếp tục theo dõi sát diễn biến cung cầu thị trường, giá cả các hàng hóa, dịch vụ thiết yết, thực hiện kiểm soát chặt chẽ và bình ổn giá cả đối với mặt hàng dịch vụ vui chơi, giải trí, ăn uống, đi lại phục vụ dịp lễ, tết.
Giá cả ổn định dịp Tết Nguyên đán Quý Mão
Giá cả ổn định dịp Tết Nguyên đán Quý Mão

Bộ Tài chính vừa có văn bản báo cáo tổng hợp tình hình giá cả thị trường và các biện pháp quản lý, điều hành giá trước, trong và sau Tết Nguyên đán Quý Mão 2023.

Theo đó, Bộ Tài chính đã tích cực triển khai Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 18/11/2022 của Ban Bí thư về việc tổ chức Tết Quý Mão năm 2023; Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm.

Nhiều siêu thị đã triển khai kế hoạch mở cửa sớm và đóng cửa muộn trong tuần lễ mua sắm cao điểm Tết, một số chuỗi cửa hàng tiện ích, siêu thị mở cửa xuyên Tết bảo đảm nguồn hàng cung cấp ra thị trường không bị gián đoạn; không có hiện tượng thiếu hàng, sốt giá, đầu cơ tích trữ găm hàng.

Tình hình cung cầu giá cả thị trường cơ bản bình ổn, nằm trong kiểm soát và diễn biến theo đúng kịch bản công tác điều hành giá.

Tại các chợ truyền thống, giá các mặt hàng thiết yếu như rau củ quả, thịt tươi, đồ phục vụ cúng lễ chỉ tăng theo quy luật vào các ngày cận Tết, một vài ngày đầu năm mới và dự báo sẽ dần trở lại bình thường vào các ngày tới khi nguồn cung từ các chuỗi siêu thị, trung tâm thương mại ổn định cũng như nhu cầu người dân trở lại bình thường. Tại các siêu thị, trung tâm thương mại, mức giá cơ bản được giữ ổn định theo chính sách bán hàng và bảo đảm nguồn cung cho nhân dân.

So với hằng năm, giá thực phẩm tươi sống ổn định trước Tết do nguồn cung dồi dào và mức giá tương đối ổn định trong dịp Tết, chỉ tăng nhẹ so với ngày thường do nhu cầu không có đột biến. Giá thực phẩm tại các điểm bán hàng bình ổn vẫn ổn định và thấp hơn so với giá thị trường.

Nhìn chung giá rau củ quả vẫn ổn định hoặc sẽ nhanh chóng trở lại bình thường sau những ngày đầu Tết do thời tiết thuận lợi cho canh tác trồng rau xanh. Giá các loại hoa quả tăng nhẹ từ 5-10% tùy từng loại so với ngày thường do nhu cầu cúng Tết cũng như phục vụ quà tặng, chúc Tết.

Nhìn chung các mặt hàng thực phẩm chế biến có giá ổn định dịp trước Tết do các doanh nghiệp chủ động chuẩn bị đủ nguồn hàng cho thị trường và các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn Tết đều có các chính sách ổn định giá cả cho các tháng trong và sau Tết. Giá nhiều mặt hàng như: Đường, dầu ăn, nước mắm ổn định do nguồn cung lớn; giá các loại bia, rượu và nước ngọt năm nay biến động không đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái do lượng hàng trong các siêu thị, cửa hàng rất dồi dào.

Giá dịch vụ vận tải cơ bản được kiểm soát tốt tại các địa phương; các đơn vị kinh doanh vận tải chấp hành tốt việc kê khai giá, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết. Giá dịch vụ giữ xe về cơ bản ổn định, ở tại các siêu thị, trung tâm thương mại giá dịch vụ giữ xe thực hiện tốt theo đúng quy định, một số chợ truyền thống, các điểm trông xe tự phát quanh các địa điểm tâm linh có biến động tăng, nhất là trong các ngày đầu năm và tại một số thành phố có nhiều điểm du lịch, đền chùa..

Bộ Tài chính đã tổ chức 3 đoàn công tác kiểm tra và nắm tình hình triển khai thực hiện công tác quản lý và bình ổn giá trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 trên địa bàn một số tỉnh, thành phố. 

Các địa phương thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ; đều có các kế hoạch chuẩn bị nguồn hàng, cung ứng hàng hóa, dịch vụ bảo đảm nhu cầu mua sắm, tiêu dùng trước, trong và sau Tết; nhất là công tác kiểm tra chấp hành pháp luật về giá và các pháp luật khác đều được chú trọng, tăng cường.

Các tỉnh đã rất linh hoạt, chủ động trong tổ chức triển khai các giải pháp bình ổn giá cả thị trường. Tùy điều kiện thực tế tại địa phương về cung – cầu hàng hóa, đẩy mạnh xã hội hóa chương trình bình ổn thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện tham gia. Các doanh nghiệp lớn, hệ thống siêu thị, doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn đã chủ động nhập hàng dự trữ phục vụ Tết Nguyên đán và có kế hoạch tổ chức các hoạt động phục vụ Tết như bán hàng lưu động, các chương trình khuyến mại, giảm giá, tổ chức bán hàng đến cận Tết và bán sớm sau Tết, bảo đảm tình trạng khan hiếm hàng hóa không xảy ra, ổn định giá cả thị trường.

Các địa phương đều triển khai quyết liệt công tác quản lý thị trường, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giá. Trong đó kiểm tra các mặt hàng thiết yếu có tác động lớn đến tâm lý người tiêu dùng như: Giá cước vận tải, giá sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi, giá giữ xe, giá dịch vụ lưu trú du lịch và các dịch vụ khác trong các dịp lễ, Tết… 

Đối với nội dung kiểm tra, thanh tra giá, mỗi địa phương đều tiến hành thành lập các đoàn kiểm tra và chia thành nhiều đợt, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, bán hàng hoá, dịch vụ theo đúng giá của cơ quan có thẩm quyền quy định; kiểm tra việc niêm yết giá, bán hàng theo giá niêm yết, việc kê khai giá, phát hiện và xử lý kịp thời.

Bộ Tài chính cũng nêu một số kiến nghị và các biện pháp bình ổn thị trường giá cả sau Tết, thời điểm bắt đầu là thời điểm của Lễ hội diễn ra trên cả nước, nhu cầu đi lại, tiêu dùng thực phẩm, ăn uống ngoài gia đình, đồ mua sắm phục vụ lễ hội đầu năm có xu hướng tăng.

Đối với tháng 2 và quý I năm 2023, cần tiếp tục theo dõi sát diễn biến cung cầu thị trường, giá cả các hàng hóa, dịch vụ thiết yết, thực hiện kiểm soát chặt chẽ và bình ổn giá cả đối với mặt hàng dịch vụ vui chơi, giải trí, ăn uống, đi lại phục vụ dịp lễ, tết. Tăng cường quản lý, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về giá gắn với kiểm tra chấp hành pháp luật về thuế, phí (nhất là dịch vụ tham quan, du lịch, dịch vụ trông giữ xe đạp, xe máy, ôtô).

Quản lý chặt việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết các mặt hàng có nhu cầu tăng cao sau Tết; tăng cường kiểm tra, giám sát việc kê khai giá, niêm yết giá và bán đúng giá niêm yết đối với các đơn vị kinh doanh vận tải trong dịp sau Tết, xử lý nghiêm tình trạng lợi dụng tăng giá bất hợp lý.

Đối với mặt hàng xăng dầu, giai đoạn sau Tết là thời điểm nhu cầu đi lại tăng cao của nhân dân, đề nghị Bộ Công Thương chủ động bám sát tình hình thực tế để chủ động các giải pháp  bảo đảm nguồn cung xăng dầu, không để xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước trong mọi tình huống.

Đối với cả năm 2023, Bộ Tài chính cho rằng, công tác quản lý, điều hành giá cần tiếp tục thực hiện một cách chủ động, linh hoạt, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu 4,5% do Quốc hội và Chính phủ đề ra.

Theo dõi sát diễn biến kinh tế và lạm phát thế giới tác động đến Việt Nam để kiến nghị các biện pháp điều hành về tiền tệ, tài khóa phù hợp.

Đối với các mặt hàng nhà nước định giá, các dịch vụ công đang triển khai lộ trình thị trường, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai việc tính toán, đánh giá tác động, chuẩn bị phương án để bảo đảm ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Đối với các hàng hóa, dịch vụ khác, trên cơ sở việc tiếp tục triển khai bình ổn giá cả dịp trước, trong và sau Tết, các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm tổ chức, theo dõi sát diễn biến cung cầu các mặt hàng thuộc lĩnh vực quản lý; chủ động dự báo và có các phương án bảo đảm cân đối cung cầu, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, vật liệu xây dựng, lương thực, vật tư nông nghiệp…

Tiếp tục chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền về điều hành giá, nhất là các mặt hàng nhạy cảm, có tác động lớn đến người dân; công khai minh bạch thông tin về giá để kiểm soát lạm phát kỳ vọng; hạn chế những thông tin thất thiệt gây hoang mang cho người tiêu dùng gây bất ổn thị trường.

]]>
CPI tháng 1/2023 cao, nhưng không lo ngại https://doanhnhandautu.com/cpi-thang-1-2023-cao-nhung-khong-lo-ngai/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:47 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5883 So với tháng trước và cùng kỳ năm trước, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2023 tăng cao nhất từ trước đến nay (ngoại trừ năm 2020).]]>
So với tháng trước và cùng kỳ năm trước, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2023 tăng cao nhất từ trước đến nay (ngoại trừ năm 2020).

Song theo nhận định của chuyên gia kinh tế, PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính), CPI năm nay chỉ tăng 3,3 – 3,7%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng khoảng 4,5% mà Quốc hội đặt ra.

CPI tháng 1/2023 cao, nhưng không lo ngại
PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính)

Ngay tháng đầu năm, CPI đã tăng tới 4,89% so với cùng kỳ năm 2022. Với tốc độ tăng cao như tháng 1 vừa qua, thì năm nay, liệu CPI có cao hơn con số 4,5% không, thưa ông?

Tháng 1/2023, CPI tăng tới 4,89% so với cùng kỳ năm 2022 và tăng 0,52% so với tháng trước, đúng là cao nhất trong nhiều năm trở lại đây (ngoại trừ năm 2020), nhưng hoàn toàn không lo ngại.

Bởi năm nay, Tết Nguyên đán rơi trọn vẹn vào tháng 1 – tháng cầu tiêu dùng tăng đột biến và theo quy luật, trong tháng Tết Nguyên đán bao giờ mặt bằng giá cả cũng tăng cao nhất so với các tháng còn lại trong năm.

Điều đặc biệt nữa là sau 3 năm liên tiếp trong dịp Tết cổ truyền, người dân bị hạn chế đi lại do đại dịch Covid-19, Tết Quý Mão năm nay, mọi hoạt động vui xuân – đón Tết đã trở lại trạng thái bình thường, nên nhu cầu mua sắm, đi lại của người dân tăng rất mạnh so với thông thường.

Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố, chỉ riêng tháng Tết Quý Mão, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 544.800 tỷ đồng, tăng 5,2% so với tháng 12/2022 và tăng tới 20% so với cùng kỳ năm 2022. Nhu cầu tăng đột biến, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cũng là lẽ đương nhiên.

Như vậy, mức tăng CPI tháng 1/2023 không phải là điều quá lo lắng, thưa ông? Theo ông, năm nay, CPI tăng khoảng bao nhiêu?

Tôi nghĩ rằng, nếu Chính phủ, các cấp, các ngành không chuẩn bị chu đáo thực phẩm, hàng hóa, dịch vụ, thì CPI tháng 1/2023 còn tăng cao hơn nữa. Bởi trong mức tăng 0,52% so với tháng trước Tết, riêng nhóm hàng thực phẩm đã đóng góp 0,2 điểm phần trăm, đi lại (giao thông) đóng góp 0,13 điểm phần trăm.

Đúng ra, kể từ ngày 1/1/2023, thuế bảo vệ môi trường sẽ trở về bình thường vì thời hạn giảm phí đã hết. Nhưng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và góp phần kiểm soát lạm phát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15. Theo đó, chỉ áp dụng thuế 2.000 đồng đối với mỗi lít xăng và 1.000 đồng đối với mỗi lít dầu, tức là chỉ bằng một nửa so với quy định.

Nhờ đó, chỉ số giá nhóm giao thông tháng 1/2023 tăng 1,39% so với tháng trước, làm CPI chung tăng 0,13 điểm phần trăm. Nếu tăng đúng theo quy định, tức là không tiếp tục giảm 50%, thì chỉ số giá nhóm giao thông và hoạt động sản xuất, kinh doanh còn tăng cao hơn nữa, khó mà giữ được CPI chỉ tăng ở mức 0,52% so với tháng trước.

Hơn nữa, tháng 1/2022, CPI rất thấp (tăng 0,19% so với tháng trước và tăng 1,94% so với cùng năm trước), đứng trên mẫu số thấp để tính toán, thì CPI tháng 1 năm nay cao cũng là bình thường, không có gì lo lắng.

Theo tôi, CPI năm 2023 chỉ tăng khoảng 3,3 – 3,7%, tức là thấp hơn rất nhiều mức tăng khoảng 4,5% theo yêu cầu của Quốc hội.

Cơ sở nào để ông đưa ra mức dự báo này?

Năm 2023, có nhiều yếu tố giúp kiểm soát lạm phát.

Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam đã thích ứng với tình hình mới, hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi mạnh mẽ, mặc dù trong quý IV/2022, một số doanh nghiệp bị thiếu hụt đơn hàng xuất khẩu phải co hẹp sản xuất, nhưng tình hình đã sáng trở lại, hàng loạt doanh nghiệp đang thu hút lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Sản xuất, kinh doanh tăng, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ dồi dào khiến lạm phát khó có thể tăng mạnh.

Thứ hai, sau thời gian tăng lãi suất, nhiều ngân hàng thương mại đã rời khỏi cuộc đua tăng lãi suất. Lãi suất giảm, giảm chi phí đầu vào, giảm giá thành sản xuất, thì sẽ giảm được giá bán sản phẩm.

Thứ ba, Bộ Tài chính đã quyết định tiếp tục thực hiện các chính sách giãn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí năm 2023 áp dụng như năm 2022, góp phần rất lớn làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.

Thứ tư, trong Nghị quyết số 01/2023/NQ-CP, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính sớm sửa Nghị định số 65/2022/NĐ-CP và Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ. Khi hoạt động huy động vốn trên thị trường trái phiếu được tháo gỡ sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thêm kênh huy động vốn mới, giảm phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng, giảm áp lực tăng lãi suất ngân hàng.

Và cuối cùng, như tôi đã nói, việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý tiếp tục giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu sẽ làm giảm giá bán lẻ xăng dầu cũng có đóng góp không nhỏ trong kiểm soát lạm phát.

Theo ông, những yếu tố khách quan sẽ tác động thế nào tới tình hình lạm phát của nước ta, thưa ông?

Rất mừng là tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế hàng đầu thế giới cũng là đối tác quan trọng nhất của Việt Nam trong quý IV/2022 không quá ảm đạm như dự báo trước đó. Khi các cường quốc kinh tế, đặc biệt là Mỹ và EU phục hồi, Việt Nam không chỉ tăng được xuất khẩu, mà còn gia tăng thặng dư thương mại, có đủ nguồn ngoại tệ để kiểm soát tỷ giá, giảm áp lực lên lạm phát.

Những ngày gần đây, đồng loạt các ngân hàng trung ương trên thế giới đã phát tín hiệu giảm đà tăng và đi đến chấm dứt tăng lãi suất để hỗ trợ sản xuất vì lạm phát tại các nền kinh tế này đang giảm dần. Đây là cơ hội để Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay.

Nếu trước đây, cuộc xung đột tại Ukraine là ẩn số với giới bình luận, phân tích chính trị, quân sự, thì bây giờ đã khá rõ nét. “Cuộc chiến” này sẽ còn kéo dài, dai dẳng, giằng co qua lại giữa các bên. Khi đã nhìn rõ kết cục của cuộc chiến, các nước bị ảnh hưởng đã và đang tìm cách hạn chế tối thiểu thiệt hại về kinh tế như kiểm soát giá xăng dầu, năng lượng, nguyên liệu; khắc phục đứt đoạn chuỗi logistics, vận chuyển truyền thống… góp phần không nhỏ chặn đà tăng và giảm dần cho phí vận chuyển.

Việt Nam là nền kinh tế phải nhập khẩu hơn 40% nguyên liệu đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu, khi giảm được chi phí trung gian sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm được giá thành sản xuất.

]]>
Lãi suất tiết kiệm có chiều hướng giảm https://doanhnhandautu.com/lai-suat-tiet-kiem-co-chieu-huong-giam/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:29 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6799 Hiện lãi suất tiết kiệm giảm nhẹ từ 0,5-1%. Tuy nhiên, các dự báo đưa ra, khả năng đến giữa năm, lãi suất mới đạt đỉnh, sau đó giảm dần.]]>
Hiện lãi suất tiết kiệm giảm nhẹ từ 0,5-1%. Tuy nhiên, các dự báo đưa ra, khả năng đến giữa năm, lãi suất mới đạt đỉnh, sau đó giảm dần.

Niêm yết lãi suất tiền gửi tối đa vẫn 9,5%/năm

Hiện mức lãi suất tiền gửi cao nhất được các ngân hàng áp dụng mức tối đa 9,5%/năm cho kỳ hạn dài đối với nhà băng quy mô vừa và nhỏ. Còn với ngân hàng lớn từ 8,5 – 9%/năm ở kỳ hạn dài từ 1 năm trở lại.

Sở dĩ các nhà băng duy trì mức lãi suất tiền gửi cao ở kỳ hạn dài ngày là do áp lực phải cơ cấu lại nguồn vốn, đáp ứng quy của Thông tư 08/2020/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 22/2019/TT-NHNN thì đến ngày 01/10/2023, các ngân hàng phải giảm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống mức 30%, thay vì 34% hiện nay và tiếp tục điều chỉnh giảm thêm sau đó.

Chính điều này gia tăng áp lực đối với các ngân hàng đang có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cao khi phải huy động nguồn vốn dài hạn, khiến chi phí vốn cao hơn để có thể đáp ứng cho vay kỳ hạn dài, dẫn đến làm giảm lợi thế của các ngân hàng này.

Niêm yết lãi suất tiền gửi tối đa vẫn 9,5%/năm

Đáng chú ý là, ở một số nhà băng quy mô nhỏ vẫn tồn tại thực trạng thỏa thuận cộng thêm biên độ lãi suất ngoài cho khách hàng, với kỳ vọng thu hút tiền gửi, với biên độ cộng thêm từ 0,5-1%/năm đối với kỳ hạn 6 và 12 tháng, duy trì lãi suất trên 10%/năm, nhưng điều kiện khách hàng gửi tại quầy, với số tiền giá trị trên 1 tỷ đồng.

Còn tại một số nhà băng quy mô, lãi suất tiền kiệm có dấu hiệu giảm nhẹ. Cụ thể, tại Techcombank, lãi suất huy động cao nhất niêm yết là 9%/năm, trong khi hồi tuần trước là 9,2%/năm và trước Tết Quý Mão nhà băng này niêm yết mức cao nhất là 9,5%/năm đối với kỳ  hạn dài.

OCB có lãi suất cao nhất 9,3%; SeABank ghi nhận mức 8,9%; MB 8,7%/năm… giảm so với mức tối đa 9,5%/năm trước Tết ở các kỳ hạn trên 1 năm. VietinBank, lãi suất huy động tại quầy cao nhất là 8,5%/năm. Trong khi đó, trên kênh online lợi tức tiền gửi cao nhất mà khách hàng có thể nhận được chỉ là 8,2%/năm.

Đối với các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ, mức lãi suất cao nhất được niêm yết chính thức cũng có dấu hiệu giảm nhẹ. Chẳng hạn, tại GPBank, hiện lãi suất cao nhất cũng chỉ còn 9,5%/năm, thay vì 9,8%/năm như sau Tết Quý Mão.

Tuy nhiên, hiện đối vời kỳ hạn tiền gửi tiết kiệm ngắn ngày từ 6 tháng trở xuống các ngân hàng vẫn niêm yết mức kịch trần 6%/năm. Kỳ hạn 6 -9 tháng, nhiều nhà băng áp dụng mức lãi suất tiết kiệm 9%/năm, thậm chí còn 9,2-9,5%/năm.

Trước đó, trong ngày 8/2, lãnh đạo các ngân hàng lớn cho biết đã đồng thuận giảm lãi suất huy động để có dư địa hạ lãi suất cho vay. Trong đó, với các nhà băng có vốn nhà nước dự kiến sẽ đồng thuận giảm lãi suất tiền gửi tối đa về 8,7%/năm.

Ngân hàng Nhà nước cũng có luôn chỉ đạo ngân hàng thương mại tiết giảm chi phí, giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp.

Trong báo cáo phân tích gần đây, Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cũng cho biết, lãi suất huy động tiền gửi gần như đi ngang trong tháng 1/2023, có dấu hiệu giảm nhiệt từ cuối tháng và có thể sẽ giảm trở lại trong năm 2023 này do điều kiện vĩ mô thuận lợi hơn.

Với áp lực hỗ trợ tỷ giá giảm bớt, BVSC cho rằng, áp lực tăng lãi suất không còn trong năm 2023. Thay vào đó, chính sách tiền tệ năm nay nhiều khả năng sẽ chuyển sang hướng hỗ trợ cho tăng trưởng.

BVSC kỳ vọng, lãi suất sẽ giảm trở lại trong năm 2023 này, nhưng các dấu hiệu rõ nét hơn từ quý II/2023 cho đến khi Cục Dự trữ Liên bàng Mỹ (Fed) ngừng việc tăng lãi suất và lạm phát của Việt Nam hạ nhiệt.

Trên thị trường liên ngân hàng lãi suất qua đêm và kỳ hạn ngắn cũng có xu hướng giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức cao kỳ hạn dài ngày, cho dù Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bơm lượng tiền lớn ra thị trường.

Trong phiên giao dịch ngày 9/2, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hút về gần 25.000 tỷ đồng, 9 thành viên tham gia trúng thầu giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 4,88%/năm. Còn chiều bơm tiền ra, chỉ có khối lượng hơn 1.664 tỷ đồng cho 2 thành viên với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 6%/năm. Đây là phiên Ngân hàng Nhàn ước hút về lượng tiền nhiều nhất kể từ sau Tết Quý Mão đến nay.

Trước đó, trong phiên giao dịch ngày 8/2, Ngân hàng Nhà nước đã hút về gần 20.000 tỷ đồng, 8 thành viên tham gia trúng thầu giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 5%/năm.

Còn chiều bơm tiền ra, chỉ có khối lượng hơn 1.075 tỷ đồng cho 3 thành viên với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 6%/năm. Còn phiên giao dịch ngày 7/2, Ngân hàng Nhà nước hút về gần 10.000 tỷ đồng, kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 5,29%/năm; trong khi lượng tiền bơm ra hơn 3.184 tỷ đồng, với lãi suất 6%/năm.

Trong khoảng 10 ngày trở lại đây, nhà điều hành đã bơm ra thị trường hơn 89.000 tỷ đồng, trong khi hút về gần 80.000 tỷ đồng. Tần suất hút tiền về trong những phiên gần đây với khối lượng cao gấp nhiều lần so với bơm ra đã khiến lượng tiền bơm ròng sụt giảm xuống còn khoảng 32.543 tỷ đồng.

Sau đợt tăng mạnh vào cuối tuần trước, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có dấu hiệu giảm những ngày gần đây, nhưng ngược lại tăng ở một số kỳ hạn dài ngày từ 3-6 tháng.

Cụ thể, ngày 8/2, lãi suất bình quân trên thị trường liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm còn 5,72% so với mức 6,05%/năm của 2 ngày trước đó; 1 tuần còn 6,1% giảm từ mức 6,75%/năm trong ngày 6/2; 2 tuần còn 6,04% xuống từ mức 6,26%/năm trong ngày 6/8; 1 tháng còn 7,7%/năm giảm từ mức 7,88%/năm.

Ngược lại, ở một số kỳ hạn lãi suất lại tăng trong ngày 8/2, chẳng hạn, kỳ hạn 3 tháng tăng từ mức 8,79%/năm trong ngày 6/2 lên 9,76%/năm và 6 tháng tăng từ 9,43%/năm lên 10,4%/năm; kỳ hạn 9 tháng duy trì mức lãi suất 9,61%/năm.

Doanh số giao dịch sụt giảm ở các kỳ hạn, tuy nhiên vẫn tập trung vào kỳ hạn qua đêm với 1908.500 tỷ đồng, 1 tuần trên 19.000 tỷ đồng…

Lạm phát cao hơn kỳ vọng tạo áp lực lên lãi suất

Thế nhưng, các nhận định đưa ra từ các tổ chức tài chính, do áp lực lạm phát cao hơn kỳ vọng nên mặt bằng lãi suất chưa sớm giảm sâu mà kỳ vọng hạ nhiệt kể từ quý III/2023.

Các phân tích của Chứng khoán Vietcombank (VCBS) đưa ra cho thấy, lãi suất huy động dự báo sẽ đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm với mức tăng 1-1,5%. Diễn biến này chịu tác động bởi quá trình tăng lãi suất của các ngân hàng trung tương lớn trên thế giới và nhất là Cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6/2023.

Lạm phát cao hơn kỳ vọng tạo áp lực lên lãi suất

Đồng thời, sau sự việc liên quan đến SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định ưu tiên cao nhất là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Tuy vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, ngân hàng cổ phần vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

HSBC dự báo, rủi ro tăng đối với lạm phát là dấu hiệu cho thấy Ngân hàng Nhà nước có thể tiếp tục tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ sở trong cả quý I/2023 và quý II/2023, đưa lãi suất điều hành lên 7% vào giữa năm 2023.

Theo báo cáo từ HSBC, lạm phát đã diễn biến phức tạp ngay từ đầu năm do nhu cầu tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán. Lạm phát toàn phần tiếp tục nhích lên trong tháng 1/2023, tăng lên 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn một chút so với kỳ vọng của thị trường.

Trong đó, lạm phát lương thực tiếp tục là yếu tố đóng góp lớn nhất, ở mức 6,1% so với cùng kỳ. Giá các mặt hàng thực phẩm khác cũng tăng lên, chẳng hạn như gạo, thịt gia cầm và trái cây chế biến, do mức tiêu thụ tăng khi đến gần những ngày nghỉ lễ.

Mặc dù giá dầu thế giới vẫn ổn định trong tháng 1/2023, nhưng thuế bảo vệ môi trường của Việt Nam đối với xăng đã tăng từ 1.000 đồng/lít lên 2.000 đồng/lít, khiến giá xăng bán lẻ trong nước tăng nhẹ.

Ngoài ra, lạm phát cơ bản tiếp tục đà tăng, lên 5,2% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh nhu cầu tiêu dùng trong nước đang bùng nổ. Bức tranh về nhu cầu trong nước sẽ hiện lên rõ ràng hơn khi dữ liệu tháng 2 được công bố nhưng những dấu hiệu ban đầu cho thấy tiêu dùng vẫn đang tăng.

SSI cũng cho rằng, mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4,5% mà Chính phủ đưa ra sẽ gặp khá nhiều thách thức. Theo SSI, rủi ro lạm phát sẽ khó lường hơn rất nhiều và là một trong những thách thức quan trọng đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô.

Điều này cũng khiến cho lạm phát cơ bản tăng mạnh hơn lạm phát chung, và áp lực lạm phát sẽ lớn dần hơn trong nửa đầu năm 2023, đặc biệt khi xem xét việc điều chỉnh giá các nhóm hàng thuộc quản lý của Chính phủ như điện hay y tế hay từ yếu tố mùa vụ.

Theo SSI, sau giai đoạn căng thẳng vào cuối năm ngoái, lãi suất huy động hiện tại đã ổn định hơn với mặt bằng vào khoảng 8-9,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 – 12 tháng, giảm 0,5% so với cuối năm 2022.

Mặt bằng lãi suất huy động có thể đã tạo đỉnh vào cuối năm 2022 trong trường hợp thị trường tích cực, song nhóm phân tích đánh giá xu hướng giảm trong năm 2023 vẫn chưa thực sự rõ nét, khi các yếu tố rủi ro ảnh hưởng tới thanh khoản trong trung và dài hạn vẫn chưa được giải quyết.

Một phần, do mức lãi suất trên vẫn được đánh giá tương đối cao so với các hoạt động kinh tế và ảnh hưởng tới nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp và dân cư. Mặt bằng lãi suất huy động cao đã thu hút lượng lớn dòng tiền nhàn rỗi từ khu vực dân cư.

Giới phân tích kinh tế – tài chính đưa ra nhận định, áp lực lạm phát của Việt Nam năm 2023 sẽ ở mức độ cao hơn một chút so với năm ngoái. Tuy vậy, Ngân hàng Nhà nước sẽ thận trọng, không tăng lãi suất và cố gắng giữ mặt bằng lãi suất ổn định để hỗ trợ các doanh nghiệp. FiinGroup cũng đưa ra nhận định, khả năng tăng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước trong quý I/2023 đã giảm.

ACBS kỳ vọng, thanh khoản hệ thống ngân hàng sẽ được cải thiện trong năm 2023 nhờ nguồn vốn quay trở lại hệ thống ngân hàng sau khi lãi suất VND đã tăng lên mức tương đối hấp dẫn so với USD. Áp lực tỷ giá cũng giảm bớt khi đồng USD suy yếu trên toàn cầu. Chỉ số USD-Index giảm mạnh từ mức đỉnh 114 xuống 104 sau khi lạm phát của Mỹ có dấu hiệu hạ nhiệt.

Dự kiến Fed sẽ nâng lãi suất lên mức 5,25% trước khi giảm dần kể từ năm 2024. Như vậy, dư địa tăng lãi suất của Fed không còn nhiều trong năm 2023 so với mức lãi suất hiện tại là 4,5%. Điều này sẽ giúp giảm áp lực tỷ giá đối với đồng VND và tạo dư địa hỗ trợ thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước.

Chính sách tài khóa theo hướng mở rộng trong năm 2023 của Chính phủ cũng sẽ giúp một lượng tiền lớn quay trở lại hệ thống và làm tăng vòng quay tiền của nền kinh tế. Theo đó, kế hoạch chi đầu tư phát triển năm 2023 là gần 726.700 tỷ đồng, tăng 38% so với kế hoạch năm 2022 và cao hơn 67% số ước thực hiện năm 2022.

Mặc dù vẫn còn những khó khăn trong việc giải ngân ở cấp địa phương, tuy nhiên, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ hứa hẹn sẽ thúc đẩy giải ngân đầu tư công tích cực hơn so với những năm trước.

ACBS cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì chính sách tiền tệ ở mức tương đối chặt chẽ thông qua công cụ lãi suất thay vì hạn chế room tín dụng như năm ngoái. Nhìn chung, trạng thái thanh khoản năm 2023 sẽ ở mức tương đối dồi dào, nhưng trên mặt bằng lãi suất cao.

]]>