# lãi suất cho vay – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:32:23 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # lãi suất cho vay – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Có nên gửi tiết kiệm kỳ hạn dài ngày khi lãi suất tăng? https://doanhnhandautu.com/co-nen-gui-tiet-kiem-ky-han-dai-ngay-khi-lai-suat-tang/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:27 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3508 Các dự báo đưa ra từ giới phân tích tài chính, trước áp lực thắt chặt tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ còn tác động lên lãi suất tiền đồng tăng nửa đầu 2023. ]]>
Các dự báo đưa ra từ giới phân tích tài chính, trước áp lực thắt chặt tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ còn tác động lên lãi suất tiền đồng tăng nửa đầu 2023.

Cùng với đó là áp lực lạm phát trong nước đi lên, nên mặt bằng lãi suất tiết kiệm tiền đồng chưa thể hạ nhiệt cho đến hết quý II/2023. Vì thế, tùy vào mục đích sử dụng vốn, song gửi tiết kiệm kỳ hạn dài ngày vẫn được xem là có lợi trong bối cảnh lãi suất tăng cao. Còn các kênh đầu tư khác (bất động sản, chứng khoán…) chưa hồi phục hiện nay. 

Lãi suất sẽ tăng thêm 1-1,5%

Trong báo cáo phân tích mới phát hành, Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) dự báo, lãi suất huy động và lãi suất cho vay còn dư địa tăng trong năm 2023. Cụ thể, áp lực lớn nhiều hơn vào thời điểm 6 tháng đầu năm nay, sau đó sẽ dần hạ nhiệt nửa cuối năm.

VCBS dự báo, lãi suất huy động dự báo đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm với mức tăng 1-1,5%. Như vậy, VCSB đánh giá, áp lực tăng lên của mặt bằng lãi suất vẫn còn. 

Lãi suất sẽ tăng thêm 1-1,5%

Sở dĩ áp lực lãi suất tiền gửi trong nước còn tăng theo VCBS là do quá trình tăng lãi suất ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6/2023.

Đồng thời, sau sự việc liên quan đến Ngân hàng SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định ưu tiên cao nhất của là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Tuy vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, ngân hàng cổ phần vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

Nhưng điểm tích cực là Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra thông điệp điều hành về việc tiếp tục điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Trong điều kiện thuận lợi, lãi suất điều hành có thể không tăng thêm trong năm 2023. Mặt bằng lãi suất kỳ vọng đạt đỉnh trong nửa đầu 2023, sau đó đi ngang và hạ nhiệt nửa cuối năm 2023.

Giới phân tích tài chính cho rằng, tình hình đầu quý III/2023 sẽ dần dễ thở hơn, lãi suất sẽ bắt đầu giảm từ cuối quý II/2023. Lạm phát năm 2023 sẽ theo hướng cao trong những tháng đầu năm nhưng giảm dần về cuối năm. Tuy nhiên, các chuyên gia đã dự báo về lãi suất, đồng thời nhận định 2023 sẽ là một năm khó khăn nhưng sẽ xuất hiện ánh sáng cuối đường hầm.

Mặc dù, biến động lãi suất cho vay có độ trễ so với lãi suất huy động, song năm 2023 lãi suất cho vay được dự báo còn dư địa tăng. Tuy nhiên, trong trường hợp lãi suất huy động tạo đỉnh trong nửa đầu 2023, lãi suất cho vay có thể ghi nhận mức tăng thấp hơn lãi suất huy động, tiếp tục có sự phân hóa mạnh giữa các ngành nghề, phân loại ưu tiên.

VCBS cũng cho rằng, khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp vẫn khó khăn hơn khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ đủ lớn để thực hiện dự án tăng lên. Đồng thời, rủi ro nợ xấu tăng lên cùng hạn mức tín dụng không quá dư thừa khiến các ngân hàng thương mại sẽ lựa chọn kỹ càng hơn với danh mục phê duyệt tín dụng.

Phân tích về yếu tố lãi suất năm 2022, TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia cho rằng, khi nói đến lãi suất, người ta quan tâm nhiều đến lãi suất thực, tức là lãi suất đó trừ đi lạm phát.

Hiện lãi suất tiền gửi kỳ hạn một năm khoảng 9,4%, mà lạm phát 6,2% thì lãi suất thực khoảng 6,2%. Lãi suất cho vay hiện đang khoảng 12,6%, mà lạm phát có 3,2% thì lãi suất thực cho vay hiện trên 9%.

Theo TS. Nghĩa, ở Mỹ, lạm phát đang ở 8%, lãi suất 3,5% – 4% thì lãi suất thực là -4%, còn Việt Nam đang là 9%, tức cao hơn lãi suất thực của Mỹ hơn 13%. Nếu so sánh với châu Âu, lạm phát 10% mà lãi suất cho vay còn thấp hơn của Mỹ thì lãi suất thực của Việt Nam còn cao hơn nữa.

Vì thế, Việt Nam đang có lãi suất thực cao nhất thế giới hiện nay khiến doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với doanh nghiệp Mỹ, châu Âu trong bối cảnh chi phí tài chính cao.

Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có yêu cầu các ngân hàng tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay, song trước áp lực chi phí đầu vào tăng, ngân hàng có kiềm được lãi suất cho vay ra, đồng thời room tín dụng hạn chế cũng là yếu tố tác động lên lãi suất.

Nên gửi tiết kiệm kỳ hạn dài?

Mặt bằng lãi suất tiết kiệm hiện đã dần ổn định so với thời điểm tăng cao đầu tháng 12/2022, các ngân hàng thành viên cũng đã đưa lãi suất tiền gửi về mức tối đa 9,5%/năm đối với kỳ hạn dài sau cam kết với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, dù còn lác đắc một vài nhà băng niêm yết lãi suất cao hơn mức trên. 

Thế giới, các nhà phân tích tài chính cho rằng, trước các dự báo lãi suất tiền gửi còn đi lên trong nửa đầu năm nay trong khi các kênh đầu tư khác (bất động sản, chứng khoán) chưa hồi phục thự sự thì tiết kiệm vẫn được cho là lựa chọn tốt nhất trong lúc này.

Không những vậy, người có tiền nhàn rỗi cũng đang từng bước cân nhắc nên gửi tiết kiệm dài ngày để hưởng lãi suất tiết kiệm cao hơn, với mức tối đa 9,5%/năm, thậm chí lên 10-11%/năm nếu có khoản tiền giá trị lớn và gửi trên 1 năm… sẽ được cộng thêm biên độ lãi suất. 

Thực tế hiện nay cho thấy, dù vừa rồi các ngân hàng thương mại đồng loạt cam kết giảm lãi suất huy động xuống dưới 9,5%/năm, song theo giới phân tích lộ trình thực hiện giảm lãi suất nhiều khả năng sẽ cần thêm thời gian, nhất là khi thanh khoản một số ngân hàng nhỏ vẫn còn gặp khó khăn.

Vả lại, với quy định giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng đang tằng dần lãi suất tiền gửi ở kỳ hạn dài ngày.

Ngay cả các ngân hàng có vốn nhà nước như: Vietcombank, BIDV đang niêm yết lãi suất cao nhất chỉ 7,4%/năm. Cụ thể, Vietcombank áp dụng lãi suất 7,4%/năm cho các kỳ hạn từ 12 – 60 tháng; lãi suất kỳ hạn 6 và 9 tháng là 6%/năm.

Nhưng đáng chú ý ở các ngân hàng quy mô nhỏ và vừa, lãi suất niêm yết tối đa đối với kỳ hạn dài là 9,5%/năm. Riêng NCB niêm yết biểu lãi suất huy động tiền gửi với mức cao nhất 9,9%/năm cho khách hàng gửi kỳ hạn từ 13 tháng trở lên.

Khách hàng gửi tiết kiệm kỳ hạn 10 – 12 tháng sẽ nhận được mức lãi 9,7%/năm; từ 7 – 9 tháng lãi 9,6%/năm và kỳ hạn 6 tháng 9,5%/năm. Do đó, ở thời điểm này tiết kiệm vẫn được xem là kênh đầu tư hấp dẫn nhất.

Bước qua quý III/2023, lãi suất huy động dự báo sẽ hạ nhiệt. Khi đó, chứng khoán nhiều khả năng sẽ trở thành kênh đầu tư hấp dẫn giới đầu tư hơn, với vùng mua an toàn hơn, dòng tiền cá nhân có thể nhập cuộc trở lại, giúp thị trường sôi động trở lại.

Vì thế, trong bối cảnh hiện nay ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc Tư vấn đầu tư của Maybank Investment Bank cũng cho rằng, gửi tiết kiệm vẫn là kênh đầu tư tốt nhất trong nửa đầu năm 2023.

Tuy vậy, các nhà phân tích tài chính cho rằng, việc chọn gửi tiết kiệm kỳ hạn ngắn hay dài còn tùy thuộc vào mục đích sử dụng vốn của từng cá nhân, nhà đầu tư.

Chẳng hạn, với những người xem tiết kiệm là khoản tích góp dài hạn có thể chọn kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên để được hưởng lãi suất cao. Trong khi những người có kế hoạch đầu tư thay vì để tiền trong ngân hàng sẽ ưu tiên chọn kỳ hạn ngắn như 6 tháng trở xuống để có thể linh hoạt về vốn.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, huy động vốn đến cuối tháng 12/2022 tăng khoảng 6%. Con số này cao hơn những tháng trước cho thấy dòng tiền gửi tiết kiệm đã quay trở lại hệ thống.

Như vậy, sau khi lãi suất huy động tăng mạnh, tiền gửi tại hệ thống ngân hàng cũng có diễn biến tích cực trong những tháng cuối năm. Tuy nhiên, mức tăng trưởng 6% của huy động vốn cho cả năm 2022 vẫn thấp hơn nhiều so với những năm trước.

Riêng tại địa bàn TP.HCM, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM ông Nguyễn Đức Lệnh cho hay, huy động vốn trên địa bàn thành phố năm nay ước tăng khoảng 6%, còn dư nợ tín dụng tăng khoảng 14%.

Theo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM, từ quý III/2022, lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại tăng liên tục với mức tăng từ 2 – 3%/năm so với đầu năm. Lãi suất dao động từ 6 – 10%/năm đã thu hút lượng tiền nhàn rỗi trên thị trường.

Tính chung huy động vốn của các ngân hàng trên địa bàn thành phố trong năm 2022 tăng khoảng 6%. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm dân cư chiếm 37,2% trong tổng huy động vốn và tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng chung, tăng 9,2% so với cuối năm 2021.

]]>
Ra Tết gửi tiền ngân hàng nào lãi suất cao nhất? https://doanhnhandautu.com/ra-tet-gui-tien-ngan-hang-nao-lai-suat-cao-nhat/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:08 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5268 Mặt bằng lãi suất tiền gửi sau Tết có điều chỉnh nhẹ ở kỳ hạn trên 1 năm, song các nhà băng vẫn duy trì mức cao, tối đa 9,5%/năm. Song áp lực lãi vay khó sớm giảm.]]>
Mặt bằng lãi suất tiền gửi sau Tết có điều chỉnh nhẹ ở kỳ hạn trên 1 năm, song các nhà băng vẫn duy trì mức cao, tối đa 9,5%/năm. Song áp lực lãi vay khó sớm giảm.

Gửi ngân hàng nào được lãi suất cao?

Lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại ổn định ở mức cao. Những kỳ hạn gửi dưới 6 tháng ở mức kịch trần 6%/năm, trên 6 tháng có sự cạnh tranh khác biệt giữa từng nhà băng. DongABank nhận lãi cuối kỳ ở kỳ hạn 6 tháng có mức lãi suất 9,35%/năm, 12 tháng lãi suất 9,5%/năm.

Saigonbank kỳ hạn 6 tháng có mức lãi suất 9,2%/năm, 12 tháng 9,4%/năm, còn 13 – 18 tháng là 9,5%/năm, từ 24 tháng trở đi chỉ còn 9,3%/năm; Techcombank huy động tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng 9%/năm, từ 12 tháng trở đi là 9,2%/năm… Các ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank có mức lãi suất huy động cao nhất là 7,4%/năm từ 12 tháng trở lên.

Gửi ngân hàng nào được lãi suất cao?

Đối với kỳ hạn tiền gửi dài ngày, một số ngân hàng có điều chỉnh giảm nhẹ từ 0,1-1%/năm sau tết Nguyên Đán như tại Techcombank, mức lãi suất huy động cao nhất ở ngân hàng này là 9,2%/năm. Trong khi trước tết, con số này là 9,5%/năm.

Sacombank hiện lãi suất cao nhất chỉ còn 9,2%/năm áp dụng cho tiền gửi online, kỳ hạn từ 15 đến 36 tháng. Tại PVCombank cũng giảm từ 9,9%/năm xuống 9,5%/năm dành cho khách hàng gửi tiền qua kênh online theo hình thức tiền gửi bậc thang, kỳ hạn 36 tháng… Tuy có giảm, song nhìn chung mặt bằng lãi suất vẫn ở mức tối đa 9,5%/năm theo như cam kết của các thành viên với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

Thậm chí, nếu cộng các chương trình ưu đãi, khuyến mãi mà ngân hàng “tung” ra để thu hút khách hàng tiền gửi đầu năm, thì lãi suất còn cao hơn. Đó là chưa kể, thị trường vẫn tồn tại tình trạng một số nhà băng còn thỏa thuận “ngầm” về lãi suất tiết kiệm với khách hàng có số lượng tiền gửi lớn khi cộng thêm biên độ 0,5-1,5%/năm.

TS. Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính, ngân hàng đưa ra nhận định, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có yêu cầu khống chế lãi suất huy động dưới 9,5%/năm, song đây vẫn là một con số cao so với mọi năm. Dòng tiền vẫn đang và sẽ tìm đến tiết kiệm.

Tính đến cuối tháng 12/2022 so với đầu năm, tổng tiền gửi toàn hệ thống tăng 6%. Nhưng dữ liệu tiền gửi dân cư do Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy, tiền gửi tăng thêm 84.597 tỷ đồng chỉ trong tháng 11 năm 2022. Đây là tháng có tốc độ tăng khá nhanh khi mặt bằng lãi suất huy động tiết kiệm trên thị trường lên cao.

Lượng tiền gửi của khu vực dân cư trong tháng 11/2022 tăng 8,38%, đạt hơn 5,744 triệu tỷ đồng. Chỉ trong tháng 11, lượng tiền gửi của người dân tăng thêm 84.597 tỷ đồng, nâng mức tăng so với cuối năm 2021 lên 444.114 tỷ đồng. Đây là tháng có mức tiền gửi dân cư tăng nhanh trong năm 2022.

Người dân có xu hướng gửi tiết kiệm vào những tháng cuối năm 2022 khi lãi suất huy động của các ngân hàng gia tăng mạnh mẽ. Đối với những kỳ hạn dưới 6 tháng, lãi suất tăng lên mức kịch trần 6%/năm, từ 6 tháng trở lên nhiều nhà băng tăng 10 – 12%/năm vào tháng 11 đến giữa tháng 12. Đến giữa tháng 12/2022, các ngân hàng đồng thuận lãi suất huy động tiết kiệm ở mức tối đa 9,5%/năm nên cuộc đua huy động vốn bằng lãi suất của các nhà băng tạm lắng dịu.

Tốc độ tăng tiền gửi của khu vực dân cư trong năm 2022 nhanh hơn nhiều so tiền gửi các tổ chức kinh tế. Vào cuối năm 2021, tốc độ tăng tiền gửi tổ chức kinh tế lên đến 15,73%, đạt 5,645 triệu tỷ đồng, còn tiền gửi dân cư chỉ tăng 3,08%, đạt 5,3 triệu tỷ đồng.

Thế nhưng đến nay, chiều hướng đã ngược lại, các tổ chức kinh tế gửi tiền chỉ tăng có 2,9% so với cuối năm 2021, đạt 5,808 triệu tỷ đồng, tương đương tăng 163.000 tỷ đồng, trong khi lượng tiền gửi dân cư tăng gấp đôi. Lượng tiền gửi của dân cư hiện tăng gần bằng so với tổ chức kinh tế. Bởi lãi suất tiết kiệm tăng, trong khi doanh nghiệp ngại vay vốn ngân hàng do áp lực lãi vay đi lên. 

Cụ thể, mặt bằng lãi suất huy động của ngân hàng phổ biến từ 9% đến 10%/năm với kỳ hạn trên 12 tháng. Trong đó, một số ngân hàng huy động tới 11,5%/năm trong quý cuối năm 2022. Theo các chuyên gia, trong ngắn và trung hạn, lãi suất huy động vẫn còn dư địa tăng nên số dư tiền gửi tại các ngân hàng tiếp tục tăng trưởng tốt.

Quá trình tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6 năm 2023. Sau sự việc liên quan đến SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định, ưu tiên cao nhất của là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Dù vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, ngân hàng vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

Trên cơ sở đó, các dự báo được đưa ra, mặt bằng lãi suất huy động đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 với mức tăng 1 – 1,5 điểm phần trăm và giảm dần từ quý III/2023.

Đánh giá về thực tế này, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc Fiin Ratings cho rằng, ở góc độ người dân lựa chọn kênh đầu tư so với tiết kiệm, nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì cao người có tiền cứ tiếp tục gửi tiết kiệm ngân hàng với rủi ro thấp và mức hấp dẫn không kém đưa tiền vào kênh đầu tư.

Vì vậy, với nhiều người nếu có tiền nhàn rỗi thì kênh tiết kiệm vẫn an toàn nhất. Hơn nữa, lãi suất vẫn đang duy trì ở mức cao nên là khá ổn. Nhưng nếu xét trong dài hạn cho cả năm 2023 thì có thể các kênh đầu tư khác sẽ hồi phục từ mức thấp thì khi đó tỷ suất sinh lời có thể cao hơn tiền lãi tiết kiệm.

Áp lực cho người cần vốn

Chứng khoán SSI nhận định, lãi suất huy động tại một số ngân hàng tăng mạnh từ tháng 10/2022 lên khoảng 9 – 10%/năm, kéo theo lãi suất cho vay cũng tăng mạnh lên khoảng 14 – 15% đối với cho vay cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lãi suất cho vay cao đã phần nào tác động tiêu cực đến nhu cầu vay mới trong giai đoạn cuối năm qua.

SSI cũng đưa ra dự báo mặt bằng lãi suất có thể sẽ không tăng mạnh trong năm 2023. Với điều kiện có sự hỗ trợ kịp thời từ Ngân hàng Nhà nước về thanh khoản, cùng với sự điều hành linh hoạt liên quan đến các tỷ lệ an toàn hoạt động và Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi về trái phiếu, tình hình thanh khoản có thể cải thiện so với 6 tháng cuối năm 2022.

Áp lực cho người cần vốn

Tuy nhiên, SSI cho rằng chỉ khi các đợt tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) kết thúc thì lãi suất tiền đồng trong nước mới có thể hạ nhiệt, có thể là trong nửa cuối năm 2023. Khoảng cách giữa tăng trưởng tín dụng và huy động có khả năng thu hẹp so với năm 2022, lần lượt ở mức 12 – 14% và 10 – 12%.

Thế nhưng, qua khảo sát của phóng viên tại 35 ngân hàng trong ngày làm việc đầu tiên của năm Quý Mão 2023, có 30 nhà băng niêm yết mức lãi suất cao nhất trên 9%/năm. Trong đó, chỉ còn 5 ngân hàng ghi nhận con số này trên 9,5%.

Giới phân tích tài chính cho rằng, nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì như hiện nay (9-10%) thì các doanh nghiệp khó có thể huy động vốn cho đầu tư phát triển. Bởi cách đơn giản nhất là người có tiền cứ tiếp tục gửi tiết kiệm ngân hàng với rủi ro thấp và mức hấp dẫn không kém đưa tiền vào kênh đầu tư.

Vả lại, giới phân tích cũng đưa ra nhận định, một khi chi phí đầu vào còn tăng thì hoạt động cho vay gặp khó, do doanh nghiệp không thể sử dụng vốn vay khi lãi suất tăng cao. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài lĩnh vực ưu tiên hiện dao động 10-13%/năm. Thậm chí cao hơn mức này, nhưng cũng không dễ tiếp cận vốn. Còn với khách hàng cá nhân, nhất là với cho vay mua nhà lãi vay lên 14-16%/năm.

Đó cũng là lý do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kêu gọi các ngân hàng hội viên thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tại các kỳ hạn tối đa 9,5%/năm (kể cả các khoản khuyến mại cộng lãi suất) ổn định mặt bằng lãi suất huy động, đảm bảo an toàn thanh khoản hệ thống ngân hàng, đặc biệt trong những tháng cuối năm, trên cơ sở đó tiết giảm chi phí nhằm giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp.

Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước khuyến khích các tổ chức tín dụng ổn định mặt bằng lãi suất cho vay. Đây là một trong những chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 27/1/2023 đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện nhiệm vụ trọng tâm sau kỳ nghỉ Tết nguyên đán Quý Mão 2023…

Cụ thể, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động theo dõi sát tình hình, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả; phối hợp chặt chẽ, hài hoà với chính sách tài khoá và các chính sách khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Chú trọng bảo đảm thanh khoản, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng nguồn vốn tín dụng vào các động lực tăng trưởng, phát triển sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Rà soát, có biện pháp phù hợp tháo gỡ khó khăn về tín dụng bất động sản đối với cả doanh nghiệp bất động sản và người mua, thúc đẩy phát triển các dự án bất động sản hiệu quả, cơ cấu lại và phát triển thị trường bất động sản, xử lý nợ xấu, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân…; tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.

Trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN vừa được Ngân hàng Nhà nước ban hành đầu năm 2023 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành năm nay, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục yêu cầu các ngân hàng tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp; cắt giảm chi phí hoạt động, khuyến khích trả cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, nâng cao năng lực tài chính và khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế, ổn định mặt bằng lãi suất thị trường.

Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú cũng cho biết, việc điều hành lãi suất và tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2023  trước hết là tính toán từ những con số, thông số đó để xác định một chính sách ổn định, tiếp tục duy trì sự ổn định của lãi suất cũng như tỷ giá hiện nay.

Nếu như trong thời gian tới điều kiện có những thuận lợi cho ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, thì Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục chỉ đạo, vận động các ngân hàng thương mại tiếp tục cắt giảm chi phí để giảm bớt lãi suất so với mức giảm lãi suất đã cam kết đồng thuận vào cuối năm 2022, thêm một lần nữa, tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân, cho nền kinh tế vay vốn với mức lãi suất thấp hơn.

]]>
Khó giảm lãi vay trong nửa đầu năm https://doanhnhandautu.com/kho-giam-lai-vay-trong-nua-dau-nam/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:59 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5373 Mặc dù lãi suất tiết kiệm hạ nhiệt sau khi các nhà băng cam kết với Hiệp hội Ngân hàng, song lãi suất cho vay bao giờ cũng có độ trễ nhất định. ]]>
Mặc dù lãi suất tiết kiệm hạ nhiệt sau khi các nhà băng cam kết với Hiệp hội Ngân hàng, song lãi suất cho vay bao giờ cũng có độ trễ nhất định.

Cùng với đó áp lực từ lộ trình tăng lãi suất USD của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chưa kết thúc, nên ngân hàng chưa thể giảm lãi suất đầu ra.

Khó giảm lãi vay trong nửa đầu năm
Mặt bằng lãi suất có thể sẽ giảm nhiệt vào quý III/2023. Ảnh: Đức Thanh

Lãi suất còn tăng trong ngắn hạn

Cùng với đà tăng chi phí đầu vào theo diễn biến của lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hiện được ngân hàng áp dụng mức dao động 9 – 10%/năm. Đối với các lĩnh vực ưu tiên mức lãi vay thấp hơn. Nhưng đáng chú ý, với các lĩnh vực rủi ro, nhất là chủ đầu tư bất động sản hiện một số ngân hàng vẫn cho vay chọn lọc ở một số dự án, nhưng lãi suất lên đến 14 – 17%/năm, kể cả với  lãi suất cho vay mua nhà. 

So với cuối năm 2021, lãi suất huy động của hệ thống ngân hàng hiện đã tăng khoảng 3% – 4% ở các kỳ hạn trên 6 tháng và trên 12 tháng. Theo các ngân hàng, có nhiều nguyên nhân khiến lãi suất huy động hiện chưa có xu hướng giảm. Tăng lãi suất tiền gửi giúp ngân hàng huy động nguồn vốn, cải thiện thanh khoản, cũng như cung ứng vốn ra nền kinh tế khi nhu cầu tăng cao trong dịp cuối năm. Song đây cũng là nguyên nhân chính đẩy lãi suất cho vay đầu ra tăng, áp lực chi phí vốn đối với doanh nghiệp. Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM cho biết, từ đầu quý III/2022 đến nay, các doanh nghiệp thành viên đã phản ánh về việc lãi suất vay vốn được ngân hàng liên tục được điều chỉnh tăng đối với khoản vay cũ. Mức phổ biến đã lên gần 12%, thậm chí có lãi suất cho vay đối với 1 số lĩnh vực thuộc diện hạn chế đã đến 13%. 

Theo các dự báo của giới phân tích tài chính, áp lực thắt chặt tiền tệ của Fed sẽ còn tác động lên lãi suất tiền đồng trong nửa đầu năm 2023. Cùng với đó là áp lực lạm phát trong nước đi lên, nên mặt bằng lãi suất tiết kiệm tiền đồng chưa thể hạ nhiệt cho đến hết quý II/2023.

Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) dự báo, lãi suất huy động và lãi suất cho vay còn dư địa tăng trong năm 2023, nhưng sẽ dần hạ nhiệt nửa cuối năm. Theo VCBS, lãi suất huy động dự báo đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm với mức tăng 1-1,5%.

Sở dĩ áp lực lãi suất tiền gửi trong nước còn tăng, theo VCBS là do quá trình tăng lãi suất ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6/2023. Đồng thời, sau sự việc liên quan đến Ngân hàng SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định ưu tiên cao nhất là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Tuy vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, các ngân hàng cổ phần vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

Để ổn định mặt bằng huy động, theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA), các tổ chức tín dụng đã thống nhất quan điểm chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và ủng hộ đề xuất mức tối đa 9,5%/năm cho lãi suất huy động các kỳ hạn, song chỉ một vài ngân hàng đưa lãi suất tiền gửi về 9,5%, còn có lãi suất 12-13%/năm kỳ hạn dài.

Kỳ vọng giảm lãi vay trong nửa đầu 2023

Không chỉ khó giảm lãi vay khi chi phí đầu vào chưa giảm, mà trong năm 2023 các nhận định đưa ra, khả năng tín dụng chỉ tăng khoảng 12%, thấp hơn mức 14,5% của năm 2022 cũng là một trong những nguyên nhân khiến lãi vay khó giảm. Nhưng giới phân tích kỳ vọng, bước sang quý III/2023 mặt bằng lãi suất giảm nhiệt.

TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia tài chính – tiền tệ cho rằng, khi nói đến lãi suất, người ta quan tâm nhiều đến lãi suất thực, tức là lãi suất đó trừ đi lạm phát. Hiện nay, lãi suất tiền gửi kỳ hạn một năm khoảng 9,5%, mà lạm phát 6,2% thì lãi suất thực khoảng 3,3%. Lãi suất cho vay hiện đang khoảng 12,6%, mà lạm phát 3,2% thì lãi suất thực cho vay hiện trên 9%. Theo TS. Nghĩa, ở Mỹ, lạm phát đang ở 8%, lãi suất 3,5% – 4% thì lãi suất thực là -4%, còn Việt Nam đang là 9%, tức cao hơn lãi suất thực của Mỹ hơn 13%. 

Lãi vay hiện nay sẽ khiến doanh nghiệp tạm thời ngưng mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh lãi suất tăng cao, nhu cầu tiêu dùng suy yếu. Vì thế, trước tình hình trên, Ngân hàng Nhà nước cũng đã nhiều lần kêu gọi, yêu cầu các ngân hàng nỗ lực giảm chi phí đầu vào để có thể giảm lãi suất đầu ra. Vừa qua, các ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay 1 – 15% theo yêu cầu, song trước áp lực chi phí đầu vào chưa giảm thì lãi vay khó giảm trong nửa đầu năm nay. Đồng thời, khi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao, do USD và lãi suất tiền đồng tăng, ảnh hưởng lên khả năng trả nợ. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023. Tuy nhiên, với các ngân hàng đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và không liên quan nhiều đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác.

Năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ diễn biến khó lường, kinh tế trong nước đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước cho biết, tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…

Phó thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú nhấn mạnh, năm 2023, một trong những thách thức lớn nhất là lạm phát cao, các ngân hàng trung ương lớn trên giới như Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất chứ không chỉ dừng lại ở mức hiện nay, do đó, áp lực tăng lãi suất rất cao. Nhưng với ngành ngân hàng trong nước, các ngân hàng sẵn sàng tiếp tục hy sinh lợi nhuận để giảm lãi suất, chia sẻ với doanh nghiệp, với nền kinh tế trong năm 2023.

Về kế hoạch điều hành chính sách tiền tệ năm 2023, TS. Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) cho biết: “Việc giảm lãi suất trong năm 2023 là nỗ lực rất lớn, chúng tôi sẽ cố gắng tham mưu với Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước duy trì ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, tiết giảm chi phí để có điều kiện, năng lực tài chính giảm cho các đối tượng khách hàng mục tiêu, phù hợp với khẩu vị kinh doanh của các ngân hàng thương mại thời gian tới. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt của ngành ngân hàng”.
]]>
Muốn hạ lãi suất, phải chờ tháo nghẽn thanh khoản https://doanhnhandautu.com/muon-ha-lai-suat-phai-cho-thao-nghen-thanh-khoan/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:46 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5545 Tuần này, gần như chắc chắn, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm. Trong nước, việc hạ nhiệt lãi suất phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cung tiền và thanh khoản hệ thống.]]>
Tuần này, gần như chắc chắn, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm. Trong nước, việc hạ nhiệt lãi suất phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cung tiền và thanh khoản hệ thống.
Muốn hạ lãi suất, phải chờ tháo nghẽn thanh khoản

Fed hạ tốc độ tăng lãi suất, sức nóng tiền gửi vẫn chưa hạ nhiệt

Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) – cơ quan hoạch định chính sách của Fed – đang tổ chức phiên họp chính sách, thảo luận về vấn đề lãi suất (cuộc họp diễn ra ngày 31/1 và 1/2/2023). Quyết định tăng lãi suất sẽ được công bố vào sáng mai (2/2 – giờ Việt Nam).

Theo nhận định của giới chuyên gia, có tới 99% khả năng Fed sẽ đưa ra quyết định tăng lãi suất 0,25 điểm phần trăm tại phiên họp lần này. Năm 2022, Fed đã tăng lãi suất 7 lần để đối phó với lạm phát tăng phi mã, làm dấy lên lo ngại nguy cơ suy thoái. Bước tăng lãi suất nhỏ hơn sẽ giúp Fed có thêm thời gian đánh giá tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ với nền kinh tế.

Ngoài sức ép tăng lãi suất từ Fed, lãi suất trong nước còn tiếp tục nóng do các yếu tố nội tại, chủ yếu là do cung tiền năm 2022 giảm và thanh khoản nền kinh tế bị nghẽn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp bị đóng băng…

Sau Tết Nguyên đán, lãi suất tiền gửi trên thị trường tiếp tục duy trì ở mức cao và có sự phân hóa mạnh mẽ. Theo đó, khối ngân hàng thương mại có vốn nhà nước vẫn duy trì được mức lãi suất huy động 7,4%/năm kỳ hạn 12 tháng, trong khi các ngân hàng cổ phần nhỏ có thể đẩy lãi suất tiền gửi lên tới 11-12%/năm cùng kỳ hạn (mức lãi suất thỏa thuận này chỉ áp dụng với các khoản tiền gửi lớn).

Theo FiinGroup, Fed có thể tăng lãi suất điều hành lên mức 5% năm nay và duy trì mức này đến hết năm 2023, đồng thời với việc giảm quy mô bảng cân đối. Ở trong nước, thanh khoản thị trường chưa thể sớm cải thiện do ách tắc về giải ngân vốn đầu tư công, thiếu vắng các biện pháp mang tính hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản. Với tác động kép của cả thị trường trong nước và thế giới, các chuyên gia phân tích của Fiin Group cho rằng, lãi suất trong nước chưa thể giảm ít nhất trong 6-12 tháng tới.

“Với dự báo này, chúng tôi cho rằng, mặt bằng lãi suất trong nước khó có thể giảm trước năm 2024, đặc biệt khi điểm nghẽn về thanh khoản hiện vẫn chưa được xử lý”, báo cáo nhấn mạnh.

Dù vậy, so với trước Tết, lãi suất huy động đã bớt nóng phần nào. Hiện lãi suất áp dụng niêm yết công khai tại hầu hết các ngân hàng đều đã hạ nhiệt về mức dưới 9,5%/năm, đúng như các ngân hàng đã cam kết với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam trước Tết. Hàng loạt ngân hàng như Techcombank, Sacombank, SaigonBank, BacABank… đã giảm 0,2 – 0,3%/năm lãi suất một số kỳ hạn so với trước Tết.

Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang tiếp tục có các động thái bơm tiền hỗ trợ thanh khoản cho thị trường. Trong phiên giao dịch đầu tiên sau Tết Nguyên đán, NHNN đã bơm ròng hơn 8.500 tỷ đồng ra thị trường qua thị trường mở.

Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú khẳng định, năm nay, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất, tỷ giá linh hoạt để đảm bảo được niềm tin của doanh nghiệp, người dân. Trong điều kiện thuận lợi, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại cắt giảm chi phí để giảm bớt lãi suất so với mức giảm lãi suất đã cam kết, đồng thuận vào cuối năm 2022.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, cung ngoại tệ dồi dào hơn, thanh khoản ngoại tệ cải thiện, sức ép tỷ giá giảm mạnh là cơ hội để NHNN tăng mua ngoại tệ dự trữ, tăng cung tiền đồng, giảm áp lực lên mặt bằng lãi suất trong nước.

Doanh nghiệp nhiều ngành sẽ điêu đứng nếu lãi suất tăng cao

Lãi suất cho vay đang trở thành mối bận tâm lớn nhất nhì của doanh nghiệp năm nay. TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, lãi suất cho vay ở Việt Nam đang quá cao, làm sụt giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo chuyên gia này, nhiều doanh nghiệp đang chọn phương án sản xuất cầm chừng vì càng làm càng lỗ.

Lãi suất năm 2023 khó tăng, song dự báo mặt bằng cao hiện nay sẽ được duy trì hết năm 2023, gây ra nhiều lo ngại.

Trong báo cáo vĩ mô mới phát hành, Công ty cổ phần Chứng khoán Agribank (Agriseco) nhận định, mặt bằng lãi suất trong nước có thể duy trì cao đến nửa đầu năm 2023, sau đó giảm dần vào năm 2024, khi Fed bắt đầu lộ trình giảm lãi suất. Riêng lãi suất điều hành dự báo ổn định năm nay. Lãi suất cho vay dự báo đạt đỉnh cuối quý I/2023, duy trì tới cuối năm trước khi giảm vào đầu năm 2024, tạo dư địa cho vay hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, tập trung ở các nhóm ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế (tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, xây dựng khu công nghiệp, nhà ở xã hội, nhà ở công nhân).

Hiện tại, NHNN đang nỗ lực kéo giảm mặt bằng lãi suất cho vay thông qua việc hỗ trợ hệ thống. Tuy vậy, khả năng chỉ khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp được khai thông, thanh khoản ngân hàng yếu được hỗ trợ kịp thời và khi các đợt tăng lãi suất của Fed kết thúc, thì lãi suất trong nước mới có thể bước vào chu kỳ hạ.

Các doanh nghiệp đang ngóng đợi việc sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu riêng lẻ. Trong khi đó, các ngân hàng mong chờ NHNN sớm sửa đổi các quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động để giảm sức ép dự trữ thanh khoản, có thể giải phóng thêm một lượng vốn ra nền kinh tế.  

Trong khi lãi suất đầu vào chưa thể hạ nhiệt, các ngân hàng thương mại (đặc biệt là các ngân hàng có vốn nhà nước) đã thực hiện giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là Agribank, Vietcombank, BIDV, VietinBank. Mặc dù vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tiếp cận vốn từ nhóm ngân hàng Big 4.

Theo ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup, nếu lãi suất không giảm, thì sẽ là thách thức vô cùng lớn cho thị trường vốn và cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023, cũng như những cân đối lớn cho các năm tiếp theo.

Ở góc độ khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp, tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn đầu tư (ROIC = Return on Invested Capital) của toàn bộ doanh nghiệp niêm yết phi tài chính chỉ xung quanh 10-11% trong 5-7 năm qua (trừ năm 2020 giảm mạnh do Covid-19). Ở góc độ chi phí vốn vay bình quân cho doanh nghiệp, nếu lãi suất cho vay bình quân cao hơn mức này, thì về cơ bản và dài hạn, doanh nghiệp không thể tạo ra giá trị cho cổ đông. 

Ở góc độ lựa chọn kênh đầu tư so với tiết kiệm, nếu lãi suất huy động ngân hàng tiếp tục duy trì như hiện nay (9-10%), rất khó để người dân chuyển tiền qua kênh đầu tư và sẽ ưu tiên phân bổ vốn nhàn rỗi với tiền gửi và tiết kiệm. Do đó, doanh nghiệp khó có thể huy động vốn cho đầu tư phát triển.  

Cấp room tín dụng, tăng cung tiền, kiểm soát ngân hàng yếu để hạ nhiệt lãi suất

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, giải pháp khả thi nhất để giảm lãi suất hiện nay là tăng cung tiền. Với lạm phát kỳ vọng 4,5% trong năm 2023, lãi suất huy động phải kéo về mức 6-7%/năm là phù hợp, khi đó, lãi suất cho vay sẽ không trở nên quá sức với doanh nghiệp.

Năm nay, NHNN định hướng tín dụng tăng trưởng 14-15%, tương đương sẽ có khoảng 1,3-1,5 triệu tỷ đồng được hệ thống ngân hàng bơm ra cho nền kinh tế, nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Con số này khả quan hơn so với dự báo của giới chuyên gia phân tích trước đó.

Theo ông Nguyễn Quang Thuân, có 5 yếu tố cần theo dõi khi lãi suất có dấu hiệu hạ nhiệt.

Thứ nhất, khi Fed có dấu hiệu hạ nhiệt lãi suất hoặc ngừng lộ trình tăng lãi suất. Dấu hiệu này xảy ra đồng nghĩa rủi ro nhập khẩu lạm phát giảm, áp lực lên tỷ giá và lãi suất cũng giảm.

Thứ hai, khi chính sách nới lỏng tiền tệ được NHNN triển khai ở mức nhất định trong năm 2023 (khi NHNN cấp room tín dụng năm 2023, các ngân hàng giải ngân và tạo vòng quay tiền trong nền kinh tế).

Thứ ba, khi vốn đầu tư công được giải ngân mạnh và có tác động lan toả đến nhiều ngành và lĩnh vực liên quan.

Thứ tư, khi các ngân hàng thương mại nhỏ, yếu được khu trú và việc tăng lãi suất của các ngân hàng này được NHNN kiểm soát, làm giảm cuộc đua lãi suất huy động đã diễn ra từ cuối năm 2022.

Thứ năm, khi cơ quan quản lý và thị trường chấp nhận lãi suất cao phản ánh rủi ro cao ở một số lĩnh vực cho vay và sản phẩm đầu tư như trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp theo đặc thù và giai đoạn phát triển của ngành, tuỳ theo mức độ rủi ro, tuỳ theo cấu trúc sản phẩm.   

Trong Chỉ thị số 03/CT-TTg mới ban hành, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, NHNN khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế, nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên.

Năm 2023, không nên tăng lãi suất điều hành.

– TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn tài chính – tiền tệ quốc gia

Fed tiếp tục tăng lãi suất, nên áp lực lãi suất, tỷ giá trong nước vẫn còn, nhưng áp lực năm nay nhẹ nhàng hơn năm 2022. Năm 2023, không nên tăng lãi suất điều hành, nếu lãi suất tăng mạnh quá, doanh nghiệp sẽ không thể chịu đựng được. Chúng tôi đã có tính toán sơ bộ và thấy rằng, cần phải hết sức thận trọng với công cụ lãi suất thời gian tới. Năm 2023, chúng ta có thể chấp nhận tiền đồng mất giá nhiều hơn một chút, song cần cân nhắc chuyện tăng lãi suất.

Lãi suất có rất nhiều áp lực tăng.

– Ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc tư vấn đầu tư Maybank Investment Bank

Lãi suất có rất nhiều áp lực tăng trong năm 2023. Tuy vậy, cần lưu ý là, dù không có quy định cứng về “trần” lãi suất huy động, song nếu lãi suất huy động tăng lên 2 con số, thì NHNN sẽ có những biện pháp ghìm lại. Ví dụ, cuối năm ngoái, khi lãi suất huy động vượt lên trên 10%, NHNN đã vào cuộc, sau đó các ngân hàng thương mại đồng thuận là không để lãi suất vượt quá 9,5%/năm. Tôi nghĩ, năm nay, lãi suất có thể vẫn tăng, nhưng mức độ không mạnh như cuối năm ngoái.

]]>
“Lãi suất cho vay trên 10%/năm, doanh nghiệp không có cửa để đầu tư, kinh doanh” https://doanhnhandautu.com/lai-suat-cho-vay-tren-10-nam-doanh-nghiep-khong-co-cua-de-dau-tu-kinh-doanh/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:13 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6301 Các doanh nghiệp cho rằng, mặt bằng lãi suất cho vay hiện nay quá cao và cần có giải pháp để kéo giảm trong vòng 6 tháng tới. ]]>
Các doanh nghiệp cho rằng, mặt bằng lãi suất cho vay hiện nay quá cao và cần có giải pháp để kéo giảm trong vòng 6 tháng tới.
f
Đơn hàng giảm, lãi suất tăng cao khiến nhiều doanh nghiệp lao đao.

Phát biểu tại Tọa đàm “Nghị quyết 01 – đột phá hỗ trợ doanh nghiệp” chiều nay (6/2), ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA) cho rằng, nếu lãi suất cho vay trung, dài hạn trên 10% thì doanh nghiệp “không có cửa” để đầu tư.

“Cần làm sao kéo lãi suất dài hạn xuống, nên vạch lộ trình cụ thể từ đây đến 6 tháng đưa lãi suất dài hạn xuống để kích thích đầu tư”, ông Hòa kiến nghị.

Mặc dù thừa nhận ngân hàng cũng là doanh nghiệp, cũng cần có lợi nhuận để đảm bảo quyền lợi cho cổ đông, song ông Hòa cho rằng, ngân hàng nên có sự đồng hành, chia sẻ cùng cộng đồng doanh nghiệp. Với lợi nhuận ngân hàng tăng cao như thời gian qua, ngân hàng hoàn toàn có điều kiện để chia sẻ, hỗ trợ với cộng đồng doanh nghiệp. 

Cũng liên quan tới vốn, ông Võ Anh Tài, Phó tổng giám đốc Tổng công ty du lịch Sài Gòn (Saigontourist Group) cho hay, sau dịch Covid-19, nhu cầu vốn để phục hồi của các doanh nghiệp ngành du lịch rất lớn. Tuy nhiên, doanh thu của ngành vẫn chưa thể phục hồi trong khi lãi vay tăng cao khiến doanh nghiệp khốn đốn.

Trong khi đó, ông Trần Việt Anh, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Nam Thái Sơn cũng cho hay, hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu đơn hàng rất thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn còn hạn mức tín dụng nhưng không dám vay thêm. Theo đó, các doanh nghiệp này chỉ mong mỏi được ngân hàng giảm thêm lãi suất không cần tăng hạn mức tín dụng. 

Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng, trong khi doanh nghiệp FDI được tiếp cận vốn rẻ thì doanh nghiệp nội địa đang phải vay vốn với lãi suất cao, làm giảm năng lực cạnh tranh.

“Trong điều kiện lạm phát tăng lên, lãi suất cao, nền kinh tế bất ổn sẽ tiếp tục tác động tới khu vực nội địa. Nếu lãi suất cao 15%-16%/năm như hiện nay, làm sao doanh nghiệp sống được?”, ông Thiên lo lắng.

Mặc dù thừa nhận rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khiến các ngân hàng không thể hạ lãi suất, song ông Thiên cho rằng, đây là bài toán cần nhanh chóng phải giải quyết.  

Cụ thể, theo chuyên gia này, đầu tiên, cần có hệ thống giải pháp hỗ trợ, khuyến khích đối với khu vực kinh tế nội địa để có điều kiện tương xứng với khu vực FDI trong đó có việc giảm lãi suất cho vay. Tiếp đó là phải cải cách thủ tục hành chính, thay đổi từ bộ máy nhà nước, bộ máy chính quyền. Đồng thời, phải cấu trúc lại, cải cách hệ thống tài chính để ổn định an toàn…  

Về phía Ngân hàng Nhà nước, ông Trần Anh Quý,Trưởng Phòng Tín dụng chính sách nhà nước, Vụ Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước) cho hay, hầu hết các  kiến nghị  của doanh nghiệp và chuyên gia đã được Ngân hàng Nhà nước tiếp thu trong quá trình nắm bắt khó khăn, vướng mắc của địa phương, hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp.

Ngay khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 01/2023/NQ-CP, ngành ngân hàng đã lập tức ban hành Chỉ thị 01 ngày 17/1/2023 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2023. Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các đơn vị trực thuộc và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện nghiêm túc các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2023 nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý.

Triển khai thực hiện Chỉ thị này, các ngân hàng đã triển khai rất nhiều giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng để vượt qua giai đoạn khó khăn. Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiết giảm chi phí hoạt động để có điều kiện giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp.

]]>
Hội nghị tín dụng bất động sản: Vingroup, Sungroup, Novaland, Hưng Thịnh… nói gì https://doanhnhandautu.com/hoi-nghi-tin-dung-bat-dong-san-vingroup-sungroup-novaland-hung-thinh-noi-gi/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:54 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6492 Có khoảng 20 doanh nghiệp tham gia Hội nghị tín dụng bất động sản sáng nay, trong đó có Vinhomes, Novaland, Sungroup, Hưng Thịnh, Ecopark, Him Lam… Các kiến nghị xoay quanh tiếp cận vốn, lãi suất vay, vướng mắc pháp lý...]]>
Có khoảng 20 doanh nghiệp tham gia Hội nghị tín dụng bất động sản sáng nay, trong đó có Vinhomes, Novaland, Sungroup, Hưng Thịnh, Ecopark, Him Lam… Các kiến nghị xoay quanh tiếp cận vốn, lãi suất vay, vướng mắc pháp lý…
Hội nghị tín dụng bất động sản: Vingroup, Sungroup, Novaland, Hưng Thịnh… nói gì

Ông Phạm Thiếu Hoa, Chủ tịch HĐQT Vinhomes nêu ra 3 vướng mắc liên quan tới tín dụng bất động sản.

Vướng mắc thứ nhất liên quan đến mục đích sử dụng vốn. Hiện tại các công ty bất động sản hiện góp vốn, hợp tác đầu tư, kinh doanh hoặc để nhận chuyển nhượng phần vốn góp tại công ty khác, các loại hình mua bán sáp nhập,… Tuy nhiên, vì thận trọng nên các ngân hàng thương mại (NHTM) không tài trợ cho vay đối với mục đích này.

Trong khi triển khai các dự án bất động sản, ngay từ đầu có nhiều chi phí phát sinh nhưng không phải chi phí nào cũng được NHTM giải ngân. Trước đây các doanh nghiệp có thể tận dùng nguồn vốn huy động từ phát hành TPDN để trang trải các chi phí này, nhưng hiện nay việc phát hành TPDN cũng đang gặp khó khăn.

Đối với việc vốn vay bù đắt chi phí DN đã bỏ ra, Hiện nay NHTM chỉ cho vay bù đắp chi phí phát sinh trong vòng 6 tháng, nhưng thực tế các doanh nghiệp bất động sản thời gian chi phí phát sinh thường kéo dài hơn 6 tháng.

Vướng mắc thứ hai liên quan đến lãi suất, theo ông Hoa, hiện nay hệ số rủi ro kinh doanh bất động sản 200%. Tuy nhiên, với các dự án đầy đủ cơ sở pháp lý sẽ không có nhiều rủi ro. Áp dụng hệ số rủi ro cao ảnh hưởng tới lãi vay của doanh nghiệp. Ngoài ra, room tín dụng hạn chế cũng là nguyên nhân đẩy lãi suất vay lên cao.

Vướng mắc thứ ba về tài sản đảm bảo, trên quan điểm tiếp cận thận trọng do lo ngại rủi ro yếu tố thị trường, các NHTM yêu cầu tài sản đảm bảo trên vốn vay của các doanh nghiệp bất động sản cao hơn các lĩnh vực thông thường. Ngoài ra, có trường hợp phải bổ sung thêm tài sản đảm bảo khác.

Từ những vướng mắc trên, VinGroup mong muốn NHNN và các NHTM có biện pháp tháo gỡ về xếp loại đối với các doanh nghiệp và dự án bất động sản. Trong bối cảnh thị trường khó khăn, những dự án đầy đủ pháp lý không nên bị đánh giá ở tỷ lệ rủi ro khác với các lĩnh vực thông thường khác.

Ngoài ra, dại diện VinGroup cũng kiến nghị cần bổ sung chính sách đặc thù với các nhà đầu tư lớn, các dự án đầy đủ pháp lý,… tránh cào bằng giữa các nhà đầu tư, các dự án. Đồng thời, về lãi suất, cần có giải pháp giảm dần lãi suất, tạo điều kiện cho các DN và khách hàng.

Đồng ý với những khó khăn như đại diện VinGroup, bà Vũ Thị Phương Nam – Giám đốc phụ trách tái cấu trúc Novaland chia sẻ thêm, trong thời gian qua, ách tắc pháp lý diễn ra rất lâu, đặc biệt là các dự án tại TP.HCM. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới chi phí cho sản phẩm cao, do đó giá thành sản phẩm đến người dân cao.

Khủng hoảng thị trường TPDN thời gian qua cũng dẫn đến lo lắng của NHTM, vì vậy các NHTM đã đặt ra nhiều biện pháp để phòng ngừa cho họ. Hiện Novaland vẫn đang làm việc với các NHTM để tháo gỡ khó khănCũng theo bà Nam, hiện các DN bất động sản khó khăn trong trả nợ trái phiếu đến hạn.

Ngoài mong muốn NHNN cho phép các doanh nghiệp bất động sản được giãn nợ từ 24 – 36 tháng, bà đề nghị, NHNN, các NHTM xem xét có thể giúp đỡ gì để cho các doanh nghiệp bất động sản hoàn thành nghĩa vụ cho các nhà đầu tư chưa chuyên nghiệp là các nhà đầu tư cá nhân.  

Đại diện Novaland cũng cho rằng, cần có sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN. Thời gian vừa rồi trải qua cuộc khủng hoảng về việc phát hành trái phiếu riêng lẻ và rất nhiều nhà đầu tư cá nhân đã tham gia vào thị trường này.

“Hiện nay, các doanh nghiệp BĐS rất khó khăn để trả nợ trái phiếu đến hạn. Chính vì vậy, chúng tôi đề nghị NHNN với vai trò lãnh đạo các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại với tư cách là những nhà đầu tư chuyên nghiệp xem xét các giải pháp có thể giúp đỡ doanh nghiệp hoàn thiện nghĩa vụ với các trái chủ”, bà Nam kiến nghị.

Đại diện Hưng Thịnh Land cungxcho hay, hiện nay việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp bị ảnh hưởng do mất niềm tin của người dân, trái chủ nên kênh huy động này bị tắc. Trong bối cảnh đó, Hưng Thịnh Land đề xuất, NHNN xem xét nới lỏng room tín dụng và cơ cấu lại nhóm nợ cho doanh nghiệp bất động sản.

“Hưng Thịnh Land, câu chuyện nhảy nhóm nợ là chưa xảy ra chứ không có nghĩa là sẽ không xảy ra. Nếu không có chính sách hỗ trợ thì dư nợ của DN sẽ nhảy nhóm nợ trong thời gian tới. Vì vậy, Hưng Thịnh Land kiến nghị NHNN cho phép cơ cấu nợ, tránh tình trạng nhảy nhóm nợ cho DN”, đại diện Hưng Thịnh Land đề nghị.

Cũng như các doanh nghiệp khác, Hưng Thịnh Land cũng đề nghị NHNN, các NHTM xem xét giảm lãi suất cho vay bởi mặt bằng lãi vay đối với lĩnh vực bất động sản rất cao. Điều này ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm của DN.

Riêng đối với sản phẩm bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng, phía SunGroup kiến nghị thêm, cần có giải pháp tháo gỡ chính sách liên quan đến bất động sản nghỉ dưỡng. Đặc biệt, cần cơ chế chính sách phát triển riêng cho loại hình này để khuyến khích phát triển du lịch.

Về việc sửa đổi Nghị định 65 về trái phiếu doanh nghiệp, Sungroup mong muốn cơ quan soạn thảo xem xét, đưa ra điều kiện phát hành linh hoạt và chuyên nghiệp hơn.

Liên quan tới vướng mắc pháp lý, theo SunGroup, hiện nay, lĩnh vực bất động sản, xây dựng đang chịu sự điều chỉnh của hơn 100 thông tư, dẫn đến nhiều chồng chéo, mâu thuẫn trong thực hiện dù các bộ ngành thường xuyên cập nhật, chỉnh sửa nhưng vẫn chưa theo kịp thực tế. Chẳng hạn lĩnh vực condotel vẫn chưa có chính sách cho phát triển. Hơn nữa, điều hành của các cơ quan chức năng tại địa phương vẫn còn nhiều chồng chéo. Chính vì vậy, cần rà soát lại chính sách, thủ tục để các doanh nghiệp có kênh đầu tư kinh doanh hiệu quả.

Theo Phó thống đốc ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, tốc độ tăng trưởng tín dụng bất động sản là cao nhất trong các ngành, lĩnh vực và chiếm tỷ trọng cao nhất trong các lĩnh vực (tăng hơn 24%, chiếm tỷ lệ 21,2% tổng dư nợ tín dụng). Theo Phó thống đốc, năm 2022, thậm chí có những doanh nghiệp bất động sản tăng tín dụng tới hơn 300%, có những tập đoàn tín dụng tăng 68 – 70%, trong khi tín dụng bình quân chung toàn nền kinh tế chỉ tăng 13-14%.

“Một số doanh nghiệp, Hiệp hội nói Ngân hàng Nhà nước siết chặt tín dụng bất động sản, nhưng tôi khẳng định lại, Ngân hàng Nhà nước chưa có văn bản hay tuyên bố nào chặt tín dụng bất động sản. Ngân hàng Nhà nước chỉ ban hành văn bản chỉ đạo kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng vào một số phân khúc có rủi ro cao trong bất động sản, có tính đầu cơ, các Dự án lớn có nguy cơ dẫn tới bong bóng, có thể dẫn tới rủi ro an toàn hệ thống. Còn tín dụng bất động sản phục vụ người mua nhà được xem bình đẳng như những lĩnh vực khác của nền kinh tế, không có hạn chế nào”, Phó thống đốc Đào Minh Tú khẳng định.

]]>
Lãi suất tiết kiệm có chiều hướng giảm https://doanhnhandautu.com/lai-suat-tiet-kiem-co-chieu-huong-giam/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:29 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6799 Hiện lãi suất tiết kiệm giảm nhẹ từ 0,5-1%. Tuy nhiên, các dự báo đưa ra, khả năng đến giữa năm, lãi suất mới đạt đỉnh, sau đó giảm dần.]]>
Hiện lãi suất tiết kiệm giảm nhẹ từ 0,5-1%. Tuy nhiên, các dự báo đưa ra, khả năng đến giữa năm, lãi suất mới đạt đỉnh, sau đó giảm dần.

Niêm yết lãi suất tiền gửi tối đa vẫn 9,5%/năm

Hiện mức lãi suất tiền gửi cao nhất được các ngân hàng áp dụng mức tối đa 9,5%/năm cho kỳ hạn dài đối với nhà băng quy mô vừa và nhỏ. Còn với ngân hàng lớn từ 8,5 – 9%/năm ở kỳ hạn dài từ 1 năm trở lại.

Sở dĩ các nhà băng duy trì mức lãi suất tiền gửi cao ở kỳ hạn dài ngày là do áp lực phải cơ cấu lại nguồn vốn, đáp ứng quy của Thông tư 08/2020/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 22/2019/TT-NHNN thì đến ngày 01/10/2023, các ngân hàng phải giảm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống mức 30%, thay vì 34% hiện nay và tiếp tục điều chỉnh giảm thêm sau đó.

Chính điều này gia tăng áp lực đối với các ngân hàng đang có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cao khi phải huy động nguồn vốn dài hạn, khiến chi phí vốn cao hơn để có thể đáp ứng cho vay kỳ hạn dài, dẫn đến làm giảm lợi thế của các ngân hàng này.

Niêm yết lãi suất tiền gửi tối đa vẫn 9,5%/năm

Đáng chú ý là, ở một số nhà băng quy mô nhỏ vẫn tồn tại thực trạng thỏa thuận cộng thêm biên độ lãi suất ngoài cho khách hàng, với kỳ vọng thu hút tiền gửi, với biên độ cộng thêm từ 0,5-1%/năm đối với kỳ hạn 6 và 12 tháng, duy trì lãi suất trên 10%/năm, nhưng điều kiện khách hàng gửi tại quầy, với số tiền giá trị trên 1 tỷ đồng.

Còn tại một số nhà băng quy mô, lãi suất tiền kiệm có dấu hiệu giảm nhẹ. Cụ thể, tại Techcombank, lãi suất huy động cao nhất niêm yết là 9%/năm, trong khi hồi tuần trước là 9,2%/năm và trước Tết Quý Mão nhà băng này niêm yết mức cao nhất là 9,5%/năm đối với kỳ  hạn dài.

OCB có lãi suất cao nhất 9,3%; SeABank ghi nhận mức 8,9%; MB 8,7%/năm… giảm so với mức tối đa 9,5%/năm trước Tết ở các kỳ hạn trên 1 năm. VietinBank, lãi suất huy động tại quầy cao nhất là 8,5%/năm. Trong khi đó, trên kênh online lợi tức tiền gửi cao nhất mà khách hàng có thể nhận được chỉ là 8,2%/năm.

Đối với các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ, mức lãi suất cao nhất được niêm yết chính thức cũng có dấu hiệu giảm nhẹ. Chẳng hạn, tại GPBank, hiện lãi suất cao nhất cũng chỉ còn 9,5%/năm, thay vì 9,8%/năm như sau Tết Quý Mão.

Tuy nhiên, hiện đối vời kỳ hạn tiền gửi tiết kiệm ngắn ngày từ 6 tháng trở xuống các ngân hàng vẫn niêm yết mức kịch trần 6%/năm. Kỳ hạn 6 -9 tháng, nhiều nhà băng áp dụng mức lãi suất tiết kiệm 9%/năm, thậm chí còn 9,2-9,5%/năm.

Trước đó, trong ngày 8/2, lãnh đạo các ngân hàng lớn cho biết đã đồng thuận giảm lãi suất huy động để có dư địa hạ lãi suất cho vay. Trong đó, với các nhà băng có vốn nhà nước dự kiến sẽ đồng thuận giảm lãi suất tiền gửi tối đa về 8,7%/năm.

Ngân hàng Nhà nước cũng có luôn chỉ đạo ngân hàng thương mại tiết giảm chi phí, giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp.

Trong báo cáo phân tích gần đây, Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cũng cho biết, lãi suất huy động tiền gửi gần như đi ngang trong tháng 1/2023, có dấu hiệu giảm nhiệt từ cuối tháng và có thể sẽ giảm trở lại trong năm 2023 này do điều kiện vĩ mô thuận lợi hơn.

Với áp lực hỗ trợ tỷ giá giảm bớt, BVSC cho rằng, áp lực tăng lãi suất không còn trong năm 2023. Thay vào đó, chính sách tiền tệ năm nay nhiều khả năng sẽ chuyển sang hướng hỗ trợ cho tăng trưởng.

BVSC kỳ vọng, lãi suất sẽ giảm trở lại trong năm 2023 này, nhưng các dấu hiệu rõ nét hơn từ quý II/2023 cho đến khi Cục Dự trữ Liên bàng Mỹ (Fed) ngừng việc tăng lãi suất và lạm phát của Việt Nam hạ nhiệt.

Trên thị trường liên ngân hàng lãi suất qua đêm và kỳ hạn ngắn cũng có xu hướng giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức cao kỳ hạn dài ngày, cho dù Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bơm lượng tiền lớn ra thị trường.

Trong phiên giao dịch ngày 9/2, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hút về gần 25.000 tỷ đồng, 9 thành viên tham gia trúng thầu giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 4,88%/năm. Còn chiều bơm tiền ra, chỉ có khối lượng hơn 1.664 tỷ đồng cho 2 thành viên với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 6%/năm. Đây là phiên Ngân hàng Nhàn ước hút về lượng tiền nhiều nhất kể từ sau Tết Quý Mão đến nay.

Trước đó, trong phiên giao dịch ngày 8/2, Ngân hàng Nhà nước đã hút về gần 20.000 tỷ đồng, 8 thành viên tham gia trúng thầu giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 5%/năm.

Còn chiều bơm tiền ra, chỉ có khối lượng hơn 1.075 tỷ đồng cho 3 thành viên với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 6%/năm. Còn phiên giao dịch ngày 7/2, Ngân hàng Nhà nước hút về gần 10.000 tỷ đồng, kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 5,29%/năm; trong khi lượng tiền bơm ra hơn 3.184 tỷ đồng, với lãi suất 6%/năm.

Trong khoảng 10 ngày trở lại đây, nhà điều hành đã bơm ra thị trường hơn 89.000 tỷ đồng, trong khi hút về gần 80.000 tỷ đồng. Tần suất hút tiền về trong những phiên gần đây với khối lượng cao gấp nhiều lần so với bơm ra đã khiến lượng tiền bơm ròng sụt giảm xuống còn khoảng 32.543 tỷ đồng.

Sau đợt tăng mạnh vào cuối tuần trước, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có dấu hiệu giảm những ngày gần đây, nhưng ngược lại tăng ở một số kỳ hạn dài ngày từ 3-6 tháng.

Cụ thể, ngày 8/2, lãi suất bình quân trên thị trường liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm còn 5,72% so với mức 6,05%/năm của 2 ngày trước đó; 1 tuần còn 6,1% giảm từ mức 6,75%/năm trong ngày 6/2; 2 tuần còn 6,04% xuống từ mức 6,26%/năm trong ngày 6/8; 1 tháng còn 7,7%/năm giảm từ mức 7,88%/năm.

Ngược lại, ở một số kỳ hạn lãi suất lại tăng trong ngày 8/2, chẳng hạn, kỳ hạn 3 tháng tăng từ mức 8,79%/năm trong ngày 6/2 lên 9,76%/năm và 6 tháng tăng từ 9,43%/năm lên 10,4%/năm; kỳ hạn 9 tháng duy trì mức lãi suất 9,61%/năm.

Doanh số giao dịch sụt giảm ở các kỳ hạn, tuy nhiên vẫn tập trung vào kỳ hạn qua đêm với 1908.500 tỷ đồng, 1 tuần trên 19.000 tỷ đồng…

Lạm phát cao hơn kỳ vọng tạo áp lực lên lãi suất

Thế nhưng, các nhận định đưa ra từ các tổ chức tài chính, do áp lực lạm phát cao hơn kỳ vọng nên mặt bằng lãi suất chưa sớm giảm sâu mà kỳ vọng hạ nhiệt kể từ quý III/2023.

Các phân tích của Chứng khoán Vietcombank (VCBS) đưa ra cho thấy, lãi suất huy động dự báo sẽ đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm với mức tăng 1-1,5%. Diễn biến này chịu tác động bởi quá trình tăng lãi suất của các ngân hàng trung tương lớn trên thế giới và nhất là Cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6/2023.

Lạm phát cao hơn kỳ vọng tạo áp lực lên lãi suất

Đồng thời, sau sự việc liên quan đến SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định ưu tiên cao nhất là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Tuy vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, ngân hàng cổ phần vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

HSBC dự báo, rủi ro tăng đối với lạm phát là dấu hiệu cho thấy Ngân hàng Nhà nước có thể tiếp tục tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ sở trong cả quý I/2023 và quý II/2023, đưa lãi suất điều hành lên 7% vào giữa năm 2023.

Theo báo cáo từ HSBC, lạm phát đã diễn biến phức tạp ngay từ đầu năm do nhu cầu tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán. Lạm phát toàn phần tiếp tục nhích lên trong tháng 1/2023, tăng lên 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn một chút so với kỳ vọng của thị trường.

Trong đó, lạm phát lương thực tiếp tục là yếu tố đóng góp lớn nhất, ở mức 6,1% so với cùng kỳ. Giá các mặt hàng thực phẩm khác cũng tăng lên, chẳng hạn như gạo, thịt gia cầm và trái cây chế biến, do mức tiêu thụ tăng khi đến gần những ngày nghỉ lễ.

Mặc dù giá dầu thế giới vẫn ổn định trong tháng 1/2023, nhưng thuế bảo vệ môi trường của Việt Nam đối với xăng đã tăng từ 1.000 đồng/lít lên 2.000 đồng/lít, khiến giá xăng bán lẻ trong nước tăng nhẹ.

Ngoài ra, lạm phát cơ bản tiếp tục đà tăng, lên 5,2% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh nhu cầu tiêu dùng trong nước đang bùng nổ. Bức tranh về nhu cầu trong nước sẽ hiện lên rõ ràng hơn khi dữ liệu tháng 2 được công bố nhưng những dấu hiệu ban đầu cho thấy tiêu dùng vẫn đang tăng.

SSI cũng cho rằng, mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4,5% mà Chính phủ đưa ra sẽ gặp khá nhiều thách thức. Theo SSI, rủi ro lạm phát sẽ khó lường hơn rất nhiều và là một trong những thách thức quan trọng đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô.

Điều này cũng khiến cho lạm phát cơ bản tăng mạnh hơn lạm phát chung, và áp lực lạm phát sẽ lớn dần hơn trong nửa đầu năm 2023, đặc biệt khi xem xét việc điều chỉnh giá các nhóm hàng thuộc quản lý của Chính phủ như điện hay y tế hay từ yếu tố mùa vụ.

Theo SSI, sau giai đoạn căng thẳng vào cuối năm ngoái, lãi suất huy động hiện tại đã ổn định hơn với mặt bằng vào khoảng 8-9,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 – 12 tháng, giảm 0,5% so với cuối năm 2022.

Mặt bằng lãi suất huy động có thể đã tạo đỉnh vào cuối năm 2022 trong trường hợp thị trường tích cực, song nhóm phân tích đánh giá xu hướng giảm trong năm 2023 vẫn chưa thực sự rõ nét, khi các yếu tố rủi ro ảnh hưởng tới thanh khoản trong trung và dài hạn vẫn chưa được giải quyết.

Một phần, do mức lãi suất trên vẫn được đánh giá tương đối cao so với các hoạt động kinh tế và ảnh hưởng tới nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp và dân cư. Mặt bằng lãi suất huy động cao đã thu hút lượng lớn dòng tiền nhàn rỗi từ khu vực dân cư.

Giới phân tích kinh tế – tài chính đưa ra nhận định, áp lực lạm phát của Việt Nam năm 2023 sẽ ở mức độ cao hơn một chút so với năm ngoái. Tuy vậy, Ngân hàng Nhà nước sẽ thận trọng, không tăng lãi suất và cố gắng giữ mặt bằng lãi suất ổn định để hỗ trợ các doanh nghiệp. FiinGroup cũng đưa ra nhận định, khả năng tăng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước trong quý I/2023 đã giảm.

ACBS kỳ vọng, thanh khoản hệ thống ngân hàng sẽ được cải thiện trong năm 2023 nhờ nguồn vốn quay trở lại hệ thống ngân hàng sau khi lãi suất VND đã tăng lên mức tương đối hấp dẫn so với USD. Áp lực tỷ giá cũng giảm bớt khi đồng USD suy yếu trên toàn cầu. Chỉ số USD-Index giảm mạnh từ mức đỉnh 114 xuống 104 sau khi lạm phát của Mỹ có dấu hiệu hạ nhiệt.

Dự kiến Fed sẽ nâng lãi suất lên mức 5,25% trước khi giảm dần kể từ năm 2024. Như vậy, dư địa tăng lãi suất của Fed không còn nhiều trong năm 2023 so với mức lãi suất hiện tại là 4,5%. Điều này sẽ giúp giảm áp lực tỷ giá đối với đồng VND và tạo dư địa hỗ trợ thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước.

Chính sách tài khóa theo hướng mở rộng trong năm 2023 của Chính phủ cũng sẽ giúp một lượng tiền lớn quay trở lại hệ thống và làm tăng vòng quay tiền của nền kinh tế. Theo đó, kế hoạch chi đầu tư phát triển năm 2023 là gần 726.700 tỷ đồng, tăng 38% so với kế hoạch năm 2022 và cao hơn 67% số ước thực hiện năm 2022.

Mặc dù vẫn còn những khó khăn trong việc giải ngân ở cấp địa phương, tuy nhiên, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ hứa hẹn sẽ thúc đẩy giải ngân đầu tư công tích cực hơn so với những năm trước.

ACBS cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì chính sách tiền tệ ở mức tương đối chặt chẽ thông qua công cụ lãi suất thay vì hạn chế room tín dụng như năm ngoái. Nhìn chung, trạng thái thanh khoản năm 2023 sẽ ở mức tương đối dồi dào, nhưng trên mặt bằng lãi suất cao.

]]>