# kỳ họp bất thường lần thứ 2 – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:36:20 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # kỳ họp bất thường lần thứ 2 – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Ủy ban Kinh tế đề nghị tính kỹ nguồn lực để đảm bảo quy hoạch khả thi https://doanhnhandautu.com/uy-ban-kinh-te-de-nghi-tinh-ky-nguon-luc-de-dam-bao-quy-hoach-kha-thi/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:55 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2766 Theo Ủy ban Kinh tế, Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đề xuất 6 nhóm giải pháp, nguồn lực thực hiện, tuy nhiên, chưa có nhiều giải pháp mới, đột phá.]]>
Theo Ủy ban Kinh tế, Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đề xuất 6 nhóm giải pháp, nguồn lực thực hiện, tuy nhiên, chưa có nhiều giải pháp mới, đột phá.
,
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Sau khi Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 trước Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra.

Theo Ủy ban Kinh tế, Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 mà Chính phủ trình Quốc hội đã đề xuất 6 nhóm giải pháp, nguồn lực thực hiện. Đây là các nhóm giải pháp mang tính vĩ mô, đột phá và cần có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong quá trình tổ chức, thực hiện quy hoạch.

Bên cạnh đó, Quy hoạch tổng thể quốc gia đặt ra nhiều nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch cũng như nhiều định hướng phát triển lớn.

Riêng định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội đã bao gồm 4 vùng động lực quốc gia, 10 hành lang kinh tế, 2 khu vực lãnh thổ cần bảo tồn và vùng hạn chế phát triển và 03 ngành quan trọng cần phát triển.

Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế cho biết, có ý kiến cho rằng, các giải pháp thực hiện chưa cụ thể hoá các định hướng đã đề ra. Do đó, đề nghị cần tiếp tục rà soát, cân đối các giải pháp, nguồn lực thực hiện để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển của đất nước.

Cụ thể, về giải pháp về huy động vốn đầu tư, vớimục tiêu tăng trưởng 7% trong giai đoạn 2021-2030, Quy hoạch tổng thể Quốc gia dự kiến cần 48,3 triệu tỷ đồng, gấp hơn 3 lần so với giai đoạn 2011-2020 (khoảng 15 triệu tỷ đồng) và đề xuất một số giải pháp cơ bản.

Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế cho rằng, các giải pháp này đang thực hiện, chưa có giải pháp mới, đột phá. “Ủy ban Kinh tế đề nghị cần tính toán kỹ lưỡng, làm rõ hơn để bảo đảm tính khả thi cho quy hoạch”, Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh báo cáo trước Quốc hội.

Theo Báo cáo quy hoạch, với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước cần huy động khoảng 9,7 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2030, chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư. Trong đó, dự kiến vốn đầu tư công thời kỳ 2021-2030 là 6,78 triệu tỷ đồng (giai đoạn 2021-2025 là 3,05 triệu tỷ đồng, bao gồm 2,87 triệu tỷ đồng vốn Kế hoạch đầu tư công trung hạn và hơn 176 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; giai đoạn 2026-2030 là 3,73 triệu tỷ đồng), vốn của DNNN và nguồn vốn khác thời kỳ 2021-2030 là 2,88 triệu tỷ đồng.

Trong khi đó, nguồn lực dành cho đầu tư phát triển giai đoạn 2021-2025 đã được Quốc hội quyết định là 2,87 triệu tỷ đồng.

Ủy ban Kinh tế đề nghị cân nhắc, tính toán kỹ về định hướng khả năng thu ngân sách nhà nước, mức bội chi và nợ công trong giai đoạn tương ứng, từ đó xác định nguồn lực ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển hợp lý và gắn chặt với an ninh tài chính quốc gia.

Cho rằng, báo cáo quy hoạch mới chỉ đưa ra một số yêu cầu sơ lược về nhu cầu tài chính cùng với những giải pháp huy động vốn đầu tư khá chung chung, đồng thời, cần làm rõ hơn nguồn lực cho các mục tiêu phát triển, Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung những giải pháp cụ thể hóa nhu cầu tài chính cũng như việc cân đối các nguồn lực để thực hiện quy hoạch.

Ủy ban Kinh tế cũng nhận thấy nhu cầu về vốn đầu tư cho xây dựng các công trình thuỷ lợi, đê điều, công trình phòng, chống ngập, úng, giao thông đường sắt… tại Báo cáo quy hoạch là rất lớn, trong khi nguồn lực của đất nước còn hạn chế. Bên cạnh đó, Quy hoạch tổng thể quốc gia được xây dựng trên cơ sở kịch bản 2 (kịch bản phấn đấu). Vì vậy, đề nghị nghiên cứu rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên hợp lý để bảo đảm tính khả thi cho các dự án.

;
Kỳ họp bất thường lần thứ 2, Quốc hội khóa V sẽ làm việc từ ngày 5/1 đến ngày 9/1/2023

Đặc biệt, theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế,các giải pháp cơ chế, chính sách vẫn được đánh giá là còn chung chung và chưa có các giải pháp cụ thể, đột phá, quy định cụ thể thời hạn, lộ trình phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ quan trọng. Ví dụ như: thời gian phải hoàn thành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia, huy động đầu tư theo hình thức đối tác công tư….

Do vậy, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị nghiên cứu, làm rõ hơn. Đồng thời, báo cáo thẩm tra cũng đề nghị nghiên cứu, bổ sung về nội dung chính sách phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực toàn diện, phát huy và sử dụng nguồn lực có hiệu quả. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn; coi trọng chất lượng giáo dục phổ thông với các chỉ số đánh giá chi tiết và có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của các khu vực miền núi, khó khăn.

Ngoài ra, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị nghiên cứu bổ sung các định hướng về chính sách xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe Nhân dân và công tác dân số trong bối cảnh, tình hình mới.

]]>
Hình thành một số vùng động lực, cực tăng trưởng làm đầu tầu dẫn dắt phát triển https://doanhnhandautu.com/hinh-thanh-mot-so-vung-dong-luc-cuc-tang-truong-lam-dau-tau-dan-dat-phat-trien/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:54 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2773 Phiên làm việc đầu tiên của Kỳ họp bất thường lần thứ 2, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. ]]>
Phiên làm việc đầu tiên của Kỳ họp bất thường lần thứ 2, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
,
 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày những nội dung chủ yếu của Quy hoạch tổng thể quốc gia, trong đó, nhấn mạnh đến 4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch.

Một là, cầnhình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. 

Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới.

Ba là, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.

Bốn là, hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Đông – Tây, các vành đai kinh tế ven biển, các vành đai công nghiệp – đô thị – dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.

Phát triển công nghiệp về khu vực phía Tây của đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông

Về định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành, lĩnh vực chủ yếu, Bộ trưởng Dũng cho biết, Quy hoạch xác định tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế.

Có thể kể tới định hướng ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ mới. Phát triển các ngành công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên.

Việc bố trí không gian công nghiệp theo hướng gắn với hệ thống đô thị, trung tâm dịch vụ để hình thành các hành lang kinh tế, các vùng động lực. Mở rộng không gian phát triển công nghiệp về khu vực phía Tây của đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, vùng trung du để giảm sức ép sử dụng quỹ đất tại đồng bằng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Với các ngành dịch vụ, định hướng là xây dựng các trung tâm thương mại, tài chính… mang tầm khu vực và thế giới tại các thành phố lớn, gắn với phát triển các vùng động lực, hành lang kinh tế.

Hình thành các trung tâm logistics quy mô, hiện đại gắn với các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế lớn. Phát triển các trung tâm du lịch có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế.

Xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung gắn với phát triển các trung tâm công nghiệp chế biến. Tăng tỷ trọng thủy sản, trái cây và giảm tỷ trọng lúa gạo một cách hợp lý tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao, hữu cơ, nông nghiệp phục vụ đô thị tại vùng Đồng bằng sông Hồng.

Tăng diện tích trồng cây ăn quả, phát triển kinh tế lâm nghiệp, phát triển dược liệu gắn với công nghiệp chế biến tại các vùng Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc.

Đối với khu vực ven biển, phát triển nuôi trồng thủy sản ven bờ kết hợp trồng và bảo vệ rừng ngập mặn; phát triển khai thác thủy sản vùng khơi hiệu quả, bền vững.

Tập trung các nguồn lực để hình thành các hành lang kinh tế 

,
Trình bày Tờ trình tóm tắt về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã nêu các căn cứ và quá trình xây dựng Quy hoạch tổng thể quốc gia; Thực trạng phát triển và tổ chức không gian phát triển đất nước giai đoạn vừa qua; Kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém chủ yếu, nguyên nhân.


Đối với các ngành hạ tầng kỹ thuật, Bộ trưởng báo cáo, sẽ tập trung các nguồn lực phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng để hỗ trợ hình thành các hành lang kinh tế và sớm hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại tại các vùng động lực.

Xây dựng đường bộ cao tốc kết nối với các trung tâm kinh tế lớn, gắn với các vùng động lực, các hành lang kinh tế.

Nâng cấp, xây dựng các cảng biển, cảng hàng không cửa ngõ quốc tế. Đẩy nhanh xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, các tuyến đường sắt kết nối với các cảng biển, cảng hàng không lớn.

Phát triển hạ tầng năng lượng, bảo đảm cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050. Đẩy mạnh phát triển hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu quốc gia. Phát triển hạ tầng bảo vệ môi trường, hạ tầng thủy lợi, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đối với các ngành hạ tầng xã hội, sẽ ưu tiên đầu tư các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới tại các thành phố lớn, các vùng động lực…

Lựa chọn một số địa bàn có điều kiện thuận lợi để hình thành các vùng động lực

Trong Quy hoạch, định hướng phát triển các vùng động lực quốc gia, hành lang kinh tế được xác định rõ ràng.

Đó là, trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay, lựa chọn một số địa bàn có điều kiện thuận lợi nhất để hình thành các vùng động lực quốc gia.

Bao gồm: Vùng động lực phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh); vùng động lực phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai – Bà Rịa-Vũng Tàu); vùng động lực miền Trung (khu vực ven biển Thừa Thiên – Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi) và vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long.

Các cực tăng trưởng tương ứng của mỗi vùng là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ.

Từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại các vùng Trung du và miền núi phía Bắc, khu vực Bắc Trung Bộ, vùng Tây Nguyên.

Đến năm 2030, sẽ ưu tiên phát triển hành lang kinh tế Bắc – Nam và 2 hành lang kinh tế Đông – Tây là Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh và Mộc Bài – TP. HCM – Vũng Tàu.

Trong dài hạn, Bộ trưởng báo cáo, sẽ từng bước hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo đường Hồ Chí Minh và cao tốc Bắc – Nam phía Tây qua địa bàn Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và 06 hành lang kinh tế Đông – Tây, bao gồm: Điện Biên – Sơn La – Hòa Bình – Hà Nội; Cầu Treo – Vũng Áng; Lao Bảo – Đông Hà – Đà Nẵng; Bờ Y – Pleiku – Quy Nhơn; Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng; Hà Tiên – Rạch Giá – Cà Mau.

Định hướng phát triển không gian biển, khai thác và sử dụng vùng trời, định ướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia cũng được xác định rõ trong Quy hoạch.

Liên quan đến định hướng sử dụng đất quốc gia, Bộ trưởng báo cáo, Quy hoạch tổng thể Quốc gia xác định phân bổ hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực đất đai. Bố trí quỹ đất phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, bảo đảm kết nối không gian liên ngành, liên vùng.

Quản lý diện tích đất trồng lúa 3,5 triệu ha; chuyển đất trồng lúa kém hiệu quả sang sản xuất cây trồng, vật nuôi có hiệu quả cao. Mở rộng diện tích đất khu công nghiệp, tập trung tại các vùng động lực, gắn kết với các hành lang kinh tế.

Ngoài ra, trong Quy hoạch đã đề xuất các định hướng sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh.

Theo Chương trình làm việc của Kỳ họp bất thường lần thứ 2, ngày 6/1, các đại biểu sẽ thảo luận ở tổ và ngày 7/1 sẽ thảo luận ở hội trường về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
]]>
Ủy ban Xã hội lo tái diễn việc chậm gia hạn đăng ký lưu hành thuốc https://doanhnhandautu.com/uy-ban-xa-hoi-lo-tai-dien-viec-cham-gia-han-dang-ky-luu-hanh-thuoc/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:50 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2813 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định cơ chế nhưng Chính phủ, Bộ Y tế vẫn chưa tận dụng được cơ hội để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan đến đăng ký lưu hành thuốc. ]]>
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định cơ chế nhưng Chính phủ, Bộ Y tế vẫn chưa tận dụng được cơ hội để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan đến đăng ký lưu hành thuốc.
,
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trong phiên làm việc sáng 5/1

Đây là nội dung Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh nhấn mạnh khi trình bày trước Quốc hội Báo cáo thẩm tra Tờ trình của Chính phủ đề xuất nội dung đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về việc chuyển tiếp thực hiện một số chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 về các chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 01/01/2023 mà chưa kịp gia hạn  theo quy định của Luật Dược.

Mặc dù cơ bản nhất trí với đề xuất của Chính phủ, xong Ủy ban Xã hội xác định, đây chỉ là giải pháp tình thế, trước mắt để khắc phục tình trạng tồn đọng việc gia hạn giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hiện nay.

“Ủy ban Xã hội đề nghị Chính phủ có giải pháp căn cơ, bền vững và lâu dài để giải quyết các vướng mắc, bất cập”, bà Nguyễn Thúy Anh nói.

Theo Ủy ban Xã hội, việc giấy đăng ký lưu hành thuốc không được gia hạn kịp thời xảy ra từ trước khi bùng phát dịch COVID-19 và trầm trọng hơn do tác động của dịch COVID-19. Để giải quyết những khó khăn trong việc cấp giấy đăng ký lưu hành trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Quy định này cơ bản đã giải quyết được khó khăn, vướng mắc về vấn đề giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc trong năm 2022, song  trong 2 năm 2023-2024 dự kiến sẽ cần tiếp tục gia hạn cho trên 12.400 thuốc.

Như vậy, bà Nguyễn Thúy Anh nhấn mạnh, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định cơ chế nhưng Chính phủ, Bộ Y tế vẫn chưa tận dụng được cơ hội để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan đến đăng ký lưu hành thuốc.

Tình trạng này có thể tái diễn nếu ngành y tế không bố trí đủ nguồn nhân lực và cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính cũng như quy trình gia hạn.

“Tờ trình của Chính phủ có nêu, một trong những nguyên nhân chưa kịp giải quyết hồ sơ gia hạn thuốc do trình tự, thủ tục, hồ sơ quy định trong Luật Dược. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Chính phủ chưa có đề xuất chính thức về sửa đổi Luật Dược, ngay cả khi Ủy ban Xã hội đã nhiều lần đôn đốc Bộ Y tế khẩn trương rà soát, đề xuất sửa đổi Luật Dược”, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội làm rõ.

Do vậy, Ủy ban xã hội yêu cầu Chính phủ cần đánh giá cụ thể và rõ ràng hơn hạn chế của quy định về hồ sơ, thủ tục gia hạn giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc của Luật Dược và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của Bộ Y tế và khẩn trương nghiên cứu, xác định thời gian, lộ trình sửa đổi Luật Dược để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong  cấp, gia hạn giấy đăng ký lưu hành thuốc (nếu có) nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về dược thời gian tới.

Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, việc cải cách thủ tục hành chính trong trình tự, thủ tục gia hạn đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc để đẩy nhanh tiến độ xử lý các hồ sơ, mà vẫn bảo đảm chất lượng thuốc trước khi được lưu hành hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Bộ Y tế.

“Đề nghị Chính phủ báo cáo rõ hơn khả năng cải cách thủ tục hành chính để giảm thiểu tối đa các thủ tục trong việc gia hạn đăng ký lưu hành thuốc”, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội nhấn mạnh.

Liên quan đến đề xuất chuyển tiếp thực hiện một số chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 về các chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19, Ủy ban Xã hội của Quốc hội cũng nhất trí.

Tuy nhiên, Ủy ban Xã hội yêu cầu Chính phủ nhấn mạnh rõ hơn trong Tờ trình gửi Quốc hội, việc chậm thanh toán chi phí trong điều trị cho người bệnh COVID-19, chế độ hỗ trợ cho người tham gia phòng, chống dịch COVID-19 làm ảnh hưởng tới các cơ sở y tế, tâm lý y, bác sĩ và đội ngũ tham gia phòng, chống dịch COVID-19.

]]>
Trình Quốc hội điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương https://doanhnhandautu.com/trinh-quoc-hoi-dieu-chinh-ke-hoach-von-vay-lai-nam-2022-cua-cac-dia-phuong/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:49 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2825 14 địa phương đề nghị điều chỉnh dự toán vốn vay lại, 1 địa phương đề nghị trả nợ trước hạn dẫn đến thay đổi mức vay, trả nợ của từng địa phương so với mức Quốc hội quyết định.]]>
14 địa phương đề nghị điều chỉnh dự toán vốn vay lại, 1 địa phương đề nghị trả nợ trước hạn dẫn đến thay đổi mức vay, trả nợ của từng địa phương so với mức Quốc hội quyết định.
.
Nội dung thứ tư trong kỳ họp bất thường lần thứ 2 là vấn đề tài chính, ngân sách nhà nước

Điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương

Nội dung thứ tư trong kỳ họp bất thường lần thứ 2 là vấn đề tài chính, ngân sách nhà nước. Cụ thể, Quốc hội sẽ xem xét, quyết định: việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương; việc bổ sung dự toán chi thường xuyên từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài năm 2021; việc điều chỉnh dự toán kinh phí chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về nội dung này, cho biết, tại Nghị quyết số 40/2021/QH15 ngày 13/11/2021 về phân bổ NSTW năm 2022, Quốc hội đã quyết nghị tổng dự toán vay của các địa phương năm 2022 là 28.636,7 tỷ đồng.

Trong đó, dự toán vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ là 18.482 tỷ đồng, dự toán vay chi tiết theo từng địa phương.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, tính đến ngày 31/8/2022, có 14 địa phương đề nghị điều chỉnh dự toán vốn vay lại, 01 địa phương đề nghị trả nợ trước hạn dẫn đến thay đổi mức vay, trả nợ của từng địa phương so với mức được Quốc hội đã quyết định.

“Trên cơ sở rà soát sơ bộ, ước thực hiện dự toán vay lại các địa phương không sử dụng hết năm 2022 là 1.547,8 tỷ đồng, số đề nghị trả nợ trước hạn là 33,7 tỷ đồng, thì việc điều chỉnh số vay, trả nợ năm 2022 của các địa phương như trên, tổng mức vay và mức bội chi của ngân sách địa phương vẫn nằm trong hạn mức đã được Quốc hội cho phép”, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc báo cáo.

Cụ thể, dự toán vay của các địa phương là 27.314,9 tỷ đồng (giảm 1.321,8 tỷ đồng), bội chi NSĐP là 23.842,7 tỷ đồng (giảm 1.339,1 tỷ đồng) và không địa phương nào vượt hạn mức dư nợ cho phép theo Luật NSNN.

Trên nguyên tắc đảm bảo tổng mức bội chi của ngân sách địa phương không tăng, dư nợ của từng địa phương đúng trong hạn mức theo quy định của Luật NSNN, đồng thời để tạo điều kiện cho các địa phương sử dụng được tối đa nguồn vốn NSTW bổ sung có mục tiêu cho các địa phương năm 2022, Chính phủ trình Quốc hội tăng dự toán vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ năm 2022 của 7 địa phương thêm 226 tỷ đồng.

Cụ thể, Bắc Kạn tăng 33,7 tỷ đồng, Phú Thọ tăng 7,3 tỷ đồng, Yên Bái tăng 55,7 tỷ đồng, Hải Dương tăng 83,8 tỷ đồng, TP. Hải Phòng tăng 20,2 tỷ đồng, Nam Định tăng 22,1 tỷ đồng, Bắc Giang tăng 3,2 tỷ đồng.

Tăng dự toán chi trả nợ gốc của tỉnh Bắc Kạn thêm 33,7 tỷ đồng để tỉnh có căn cứ thực hiện trả nợ trước hạn. UBND tỉnh Bắc Kạn bố trí nguồn trả nợ trước hạn phù hợp với quy định.

Chấp thuận cho 7 địa phương giảm dự toán vốn vay lại năm 2022, với tổng mức giảm là 1.547,8 tỷ đồng để đảm bảo kế hoạch vay lại vốn vay nước ngoài và mức bội chi năm 2022 không vượt mức Quốc hội đã phê duyệt.

Giao UBND 7 tỉnh, thành phố được điều chỉnh tăng dự toán vốn vay lại năm 2022 nêu trên cam kết giải ngân hết toàn bộ số vốn được điều chỉnh tăng dự toán để tránh lãng phí.

Bổ sung dự toán chi thường xuyên NSNN năm 2021 nguồn viện trợ không hoàn lại nước ngoài

Về nội dung này, Bộ trưởng báo cáo, khi trình Quốc hội quyết toán NSNN năm 2020, Chính phủ đã báo cáo số vốn viện trợ không hoàn lại nước ngoài đã tiếp nhận từ năm 2020 trở về trước nhưng chưa được bố trí dự toán để quyết toán theo quy định là 1.431,4 tỷ đồng.

.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trình bày Tờ trình về việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương, bổ sung dự toán chi thường xuyên năm 2021 nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài và điều chỉnh dự toán kinh phí chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan

Trên cơ sở báo cáo của Chính phủ, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 53/2022/QH15 ngày 15/6/2022 phê chuẩn quyết toán NSNN năm 2020. Theo đó, Quốc hội đã chấp thuận quyết toán số vốn 599,3 tỷ đồng. Sau khi giảm trừ số hoàn trả lại nhà tài trợ (1,8 tỷ đồng), còn lại chưa được quyết toán là 830,3 tỷ đồng.

Đến nay qua tổng hợp báo cáo của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, trong số 830,3 tỷ đồng, số kinh phí đủ điều kiện quyết toán năm 2021 là 276,3 tỷ đồng.

Ngoài ra, qua rà soát, một số Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương báo cáo phát sinh một số khoản viện trợ khác từ năm 2019 trở về trước đã được các cơ quan tiếp nhận, không nằm trong khoản viện trợ 830,3 tỷ đồng nêu trên, đã chi tiêu, đủ điều kiện quyết toán, nhưng thiếu dự toán là 115,6 tỷ đồng.

Như vậy, tổng vốn viện trợ thực nhận từ năm 2020 trở về trước, đã chi tiêu và có nhu cầu bổ sung dự toán năm 2021 là 391,9 tỷ đồng.

Đối với các khoản viện trợ phát sinh năm 2021, theo Bộ trưởng, chủ yếu là viện trợ hỗ trợ phòng chống dịch Covid-19 đã tiếp nhận.

Sau khi có ý kiến thẩm tra của Kiểm toán Nhà nước, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung dự toán  chi thường xuyên NSNN năm 2021 nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài năm 2021 là 14.321,6 tỷ đồng,

“Tóm lại, thực hiện quy định của Luật NSNN, trên cơ sở ý kiến của Kiểm toán Nhà nước, để có cơ sở hạch toán đầy đủ vào NSNN và quyết toán số vốn viện trợ phát sinh đã tiếp nhận và sử dụng, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung dự toán NSNN năm 2021 nguồn viện trợ không hoàn lại (chi thường xuyên) số tiền 14.713,5 tỷ đồng, trong đó phần bổ sung dự toán cho các khoản viện trợ cho phòng chống dịch Covid-19 là 11.360,4 tỷ đồng; phần bổ sung dự toán cho các khoản viện trợ khác là 3.353,1 tỷ đồng”, Bộ trưởng báo cáo.

Liên quan đến nội dung điều chỉnh dự toán kinh phí bảo đảm hoạt động chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan, Chính phủ trình Quốc hội giảm dự toán chi thường xuyên năm 2021 của Bộ Tài chính số tiền 2.268,3 tỷ đồng (trong đó, của Tổng cục Thuế là 1.134,8 tỷ đồng, của Tổng cục Hải quan là 1.133,5 tỷ đồng) và tăng tương ứng dự toán chi đầu tư phát triển năm 2021 của Bộ Tài chính (trong đó, TCT là 1.134,8 tỷ đồng, của TCHQ là 1.133,5 tỷ đồng).

Đồng thời cho phép chuyển nguồn số kinh phí này sang năm 2023 để thực hiện đầu tư 95 dự án của TCT và TCHQ, thời gian giải ngân đến hết ngày 31/12/2024.

]]>