# kinh tế xanh – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Wed, 20 Aug 2025 19:25:57 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # kinh tế xanh – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Doanh nghiệp đề xuất chiến lược giúp Đồng Tháp phát triển nhanh và bền vững https://doanhnhandautu.com/doanh-nghiep-de-xuat-chien-luoc-giup-dong-thap-phat-trien-nhanh-va-ben-vung/ Wed, 20 Aug 2025 19:25:54 +0000 https://doanhnhandautu.com/doanh-nghiep-de-xuat-chien-luoc-giup-dong-thap-phat-trien-nhanh-va-ben-vung/

Hội nghị recently đã diễn ra với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp, những người đã đánh giá và chia sẻ quan điểm về cơ hội, tiềm năng, thế mạnh cũng như những thách thức mà tỉnh Đồng Tháp đang đối mặt trong giai đoạn 2025-2030 và tầm nhìn đến 2045. Tại hội nghị, các doanh nghiệp đã đề xuất những giải pháp đột phá giúp tỉnh đạt được mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, tăng trưởng hai con số và nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Mục tiêu cuối cùng là giúp người dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc.

Đồng chí Lê Quốc Phong phát biểu tại hội nghị.
Đồng chí Lê Quốc Phong phát biểu tại hội nghị.

Các doanh nghiệp đã tập trung vào việc đề xuất và gợi ý các giải pháp hiệu quả để triển khai các nhóm giải pháp trọng tâm. Những lĩnh vực được chú trọng bao gồm phát triển công nghiệp, nông nghiệp, giáo dục, y tế, du lịch, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, còn có các ngành kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế biển cũng như các giải pháp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thu hút đầu tư và phát triển kinh tế tư nhân.

Bà Lương Thị Diễm Trang, Giám đốc Công ty cổ phần Cảng Mỹ Tho phát biểu tại hội nghị.
Bà Lương Thị Diễm Trang, Giám đốc Công ty cổ phần Cảng Mỹ Tho phát biểu tại hội nghị.

Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Lê Quốc Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Đồng Tháp, đã bày tỏ sự cám ơn và trân trọng đối với những đóng góp tâm huyết của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh dành cho sự phát triển của Đồng Tháp. Theo Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, những vấn đề mà tỉnh đang tập trung và được doanh nghiệp góp ý cho sự phát triển bao gồm cải cách thủ tục hành chính, quy hoạch không gian phát triển du lịch, tạo đột phá cho lĩnh vực nông nghiệp, hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng, đầu tư nguồn nhân lực, sử dụng nguồn đất đai phù hợp và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp cam kết sẽ tiếp thu tối đa các ý kiến và vận dụng vào thực tiễn một cách hợp lý để tạo sự phát triển mạnh mẽ cho địa phương trong thời gian tới. Việc này thể hiện sự quyết tâm của tỉnh trong việc xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững, tận dụng tối đa các nguồn lực và cơ hội để mang lại cuộc sống tốt hơn cho người dân.

Trong thời gian tới, tỉnh Đồng Tháp sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Đồng thời, tỉnh sẽ tập trung vào phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái, và công nghiệp chế biến. Việc ứng phó với biến đổi khí hậu cũng sẽ được tỉnh coi trọng, thông qua việc triển khai các giải pháp giảm thiểu rủi ro và nâng cao khả năng phục hồi của nền kinh tế.

Tỉnh Đồng Tháp cũng sẽ chú trọng vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thông qua việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo. Việc này sẽ giúp tỉnh có được nguồn nhân lực đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, cũng như góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương.

Qua đó, có thể thấy rằng, tỉnh Đồng Tháp đang có những định hướng và giải pháp rõ ràng để phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Với sự tham gia đóng góp của các doanh nghiệp và sự quyết tâm của lãnh đạo tỉnh, Đồng Tháp hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

]]>
Ngoại giao kinh tế tranh thủ mọi cơ hội cho phát triển đất nước https://doanhnhandautu.com/ngoai-giao-kinh-te-tranh-thu-moi-co-hoi-cho-phat-trien-dat-nuoc/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:37 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3400 Ngoại giao kinh tế được xác định là một nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của ngoại giao Việt Nam, một động lực quan trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững.]]>
Ngoại giao kinh tế được xác định là một nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của ngoại giao Việt Nam, một động lực quan trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Ngoại giao kinh tế tranh thủ mọi cơ hội cho phát triển đất nước
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ.

Trao đổi với báo giới về kết quả công tác ngoại giao kinh tế năm 2022 và những định hướng cho năm 2023, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ khẳng định, ngành ngoại sẽ sẽ tiếp tục nỗ lực hết sức mình triển khai công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, với phương châm “Quyết liệt, mạnh dạn, đột phá, thực chất, hiệu quả, khai thác và tranh thủ mọi cơ hội cho phát triển đất nước.

Phục vụ công cuộc phát triển đất nước luôn là nhiệm vụ của ngành ngoại giao. Công tác ngoại giao phục vụ phát triển năm nay có điểm gì khác biệt so với trước đâyNgoại giao kinh tế đã được đẩy mạnh ra sao để thích ứng với tình hình mới? 

Dưới sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trong năm 2022, ngành ngoại giao đã thể hiện sự chủ động, nhạy bén trong việc nhanh chóng chuyển trọng tâm từ ngoại giao vắc-xin sang ngoại giao kinh tế phục vụ phục hồi và phát triển đất nước. Theo đó, công tác ngoại giao kinh tế đã được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ trung tâm của toàn ngành cũng như của tất cả 94 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

Trước hết, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ban, ngành, địa phương tiếp tục cụ thể hóa chủ trương của Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Bộ Ngoại giao đã tham mưu, trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030, tạo xung lực mới để các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương triển khai hiệu quả hơn công tác này, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. 

Thứ hai, ngành ngoại giao cùng với các ngành tiếp tục đóng góp vào nỗ lực làm sâu sắc thêm quan hệ của nước ta với các nước, đặc biệt quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư. Hợp tác kinh tế trở thành nội dung trọng tâm trong tất cả các hoạt động đối ngoại cấp cao và các cấp. Trong gần 70 hoạt động đối ngoại của lãnh đạo chủ chốt trong năm 2022, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội đều chỉ đạo sát sao và trực tiếp thúc đẩy tối đa các nội dung kinh tế. Các chuyến công tác nước ngoài của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt cũng như các chuyến thăm Việt Nam của lãnh đạo các nước đều đạt những kết quả, thỏa thuận cụ thể, thiết thực về kinh tế. Công tác đối ngoại đã bám sát phương châm tranh thủ mọi cơ hội, mọi nguồn lực để phát triển đất nước.

Thứ ba, ngành ngoại giao đã có nhiều đóng góp nhằm đẩy mạnh hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế; kịp thời, nhanh nhạy tranh thủ thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ các động lực mới cho phát triển, nhất là các nguồn tài chính xanh, đầu tư cho chuyển đổi năng lượng, đầu tư những ngành công nghệ cao… Điển hình là việc Nhóm G7, châu Âu và Việt Nam đã có tuyên bố chính trị về quan hệ “Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng” (JETP), huy động nguồn đầu tư ban đầu trị giá 15,5 tỷ USD; Tập đoàn Lego đã khởi công nhà máy trung hòa carbon đầu tiên trên thế giới với số vốn đầu tư 1,3 tỷ USD tại Bình Dương; Samsung khánh thành Trung tâm Nghiên cứu Phát triển trị giá 220 triệu USD tại Hà Nội. Bộ Ngoại giao cũng hỗ trợ, thúc đẩy triển khai hiệu quả 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; tham mưu, kiến nghị để nước ta kịp thời tham gia các sáng kiến liên kết kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực cho phát triển.

Thứ tư, triển khai chủ trương lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ,thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước tháng 9/2022, ngành ngoại giao và hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã tích cực đồng hành, tìm kiếm mọi cơ hội, đẩy mạnh kết nối, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư và mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, nhất là mở rộng các thị trường tiềm năng, khai thông các thị trường mới. Trong năm 2022, Bộ Ngoại giao đã tổ chức hơn 50 đoàn làm việc với 25 địa phương, tổ chức khoảng 70 hoạt động kết nối giữa các địa phương với đối tác, hỗ trợ ký kết hơn 40 văn bản hợp tác quốc tế. Những nỗ lực này đã được các địa phương, doanh nghiệp ghi nhận và đánh giá cao. 

Thứ năm, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài phát huy sự chủ động, nhạy bén trong công tác nghiên cứu, tham mưu phục vụ điều hành kinh tế – xã hội của Chính phủ trên cơ sở bám sát nhu cầu trong nước và các trọng tâm của Chính phủ. Bộ đã có nhiều báo cáo có chất lượng về tình hình kinh tế thế giới và các vấn đề đang nổi lên có tác động sâu sắc đến phát triển kinh tế đất nước, từ đó tham mưu, kiến nghị chính sách phù hợp của Việt Nam.

Có thể khẳng định, tiếp nối tinh thần quyết liệt của “chiến dịch” ngoại giao vắc-xin trong năm 2021, đến năm 2022, trên cơ sở thích ứng linh hoạt, nhạy bén, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện ở nước ngoài đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành triển khai công tác ngoại giao kinh tế với tinh thần chủ động, sáng tạo, với trách nhiệm cao nhất trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, thực sự phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước. 

Bên cạnh việc phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, việc đẩy mạnh xu thế hợp tác kinh tế xanh, kinh tế số cũng chính là yếu tố để Việt Nam thu hút tốt hơn sự quan tâm của các đối tác, từ đó tăng cường sự hợp tác giữa hai bên?

Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong số các nước đang phát triển có cam kết mạnh mẽ về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số. Cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP 26 năm 2021, một mặt đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của chính chúng ta, song mặt khác cũng mở ra rất nhiều cơ hội hợp tác với các đối tác quốc tế vì đây đang là những vấn đề quan tâm chung của toàn cầu.

Hiện nay, các tổ chức quốc tế, các cơ chế đa phương, các đối tác phát triển đều ưu tiên cao và dành nhiều nguồn lực thúc đẩy nỗ lực của cộng đồng quốc tế thực hiện chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Nắm bắt xu thế đó, vừa qua, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành đã tập trung thúc đẩy hợp tác với các đối tác cả song phương và đa phương nhằm thu hút tối đa các nguồn lực bên ngoài, kết hợp với các nguồn lực trong nước phục vụ thực hiện các chiến lược quốc gia về chuyển đổi xanh và chuyển đổi số. 

Nội hàm về hợp tác kinh tế số cũng được đề cao trong các hoạt động đối ngoại cấp cao, tập trung vào thu hút đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển đổi số, nâng cao năng lực quản trị, v.v… Nhiều đối tác quốc tế như Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã bày tỏ sẵn sànghợp tác với Việt Nam về kỹ năng số, thành lập trung tâm Cách mạng công nghiệp 4.0 và những sáng kiến khác.

Chủ trương phát triển kinh tế xanh, kinh tế số cũng làm cho Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh bền vững. Tổng giám đốc điều hành Tập đoàn Lego khẳng địnhmột trong những lý do chọn Việt Nam để đầu tư là việc Việt Nam có những cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững, đặc biệt là sau khi được trực tiếp gặp Thủ tướng Chính phủ tại COP 26.

Có thể khẳng định, kinh tế xanh, kinh tế số là những lĩnh vực có rất nhiều tiềm năng để Việt Nam hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế trong thời gian tới. Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan thúc đẩy hơn nữa hợp tác trong những lĩnh vực này, thu hút tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nước, trên cơ sở bảo đảm thực hiện hiệu quả chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện. 

Vai trò của Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện trong thúc đẩy triển khai các FTA và thu hút đầu tư trong năm qua?

Thời gian qua, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện tiếp tục chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành nhằm hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp tận dụng tốt mạng lưới FTA và thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hai trong ba động lực quan trọng cho tăng trưởng là thương mại và đầu tư.

Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện đã thực hiện tập trung ưu tiên thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng mạng lưới các FTA để hạn chế tối đa ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. 

Ngành ngoại giao đã tích cực thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại của ta với các đối tác, nhất là các đối tác FTA, vận động các đối tác gỡ bỏ rào cản thương mại đối với các hàng hóa Việt Nam; kịp thời thông tin về tình hình, điều chỉnh chính sách của các đối tác, phát hiện các cơ hội để mở rộng xuất khẩu; phối hợp triển khai nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư trọng tâm, trọng điểm, tận dụng công nghệ số để bảo đảm hiệu quả cao nhất; kịp thời cảnh báo, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình tham gia các hoạt động giao thương quốc tế; tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương và các bộ, ngành đàm phán, nâng cấp các FTA hiện nay, nghiên cứu, đàm phán các FTA với đối tác mớiđể tiếp tục đa dạng hóa thị trường, đối tác, chuỗi cung ứng. 

Về thu hút đầu tư, Bộ Ngoại giao đã đồng hành cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan đẩy mạnh vận động, thu hút đầu tư chất lượng cao, kết nối, hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư mới và mở rộng đầu tư tại Việt Nam, đẩy mạnh trao đổi, hợp tác với các Quỹ đầu tư, nghiên cứu các xu hướng đầu tư quốc tế… Các hoạt động thu hút đầu tư được triển khai đồng bộ, đặc biệt trong các hoạt động đối ngoại cấp cao, nhằm tranh thủ tối đa xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng hiện nay.

Kết quả đạt được như việc kim ngạch xuất nhập khẩu đạt kỷ lục mới, vượt 700 tỷ USD, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng trưởng khá cao so với năm 2021 trong bối cảnh kinh tế thế giới đang hết sức khó khăn là rất tích cực, thể hiện phần đóng góp của ngành ngoại giao. 

Xin Thứ trưởng chia sẻ về nhưng điểm mới của Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030. Thành công từ ngoại giao vắc-xin đã mang lại cho chúng ta các bài học kinh nghiệm nào để áp dụng trong bối cảnh mới?

Chỉ thị 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư là định hướng quan trọng cho công tác ngoại giao kinh tế trong giai đoạn phát triển chiến lược mới của đất nước. Lần đầu tiên, ngoại giao kinh tế được xác định là một nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của ngoại giao Việt Nam; một động lực quan trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đóng vai trò tiên phong trong huy động các nguồn lực bên ngoài. Điều này khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của công tác ngoại giao kinh tế trong thời gian tới.

Để triển khai Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp chủ trì hai Hội nghị đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước tháng 9/2022 và Hội nghị tổng kết công tác ngoại giao vắc-xin và bài học kinh nghiệm để thúc đẩy công tác ngoại giao kinh tế trong tình hình mới tháng 11/2022. Trên cơ sở chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Ngoại giao rút ra năm bài học quan trọng nhằm tiếp tục triển khai hiệu quả, thực chất công tác ngoại giao kinh tế trong thời gian tới, đó là:

Thứ nhất, kiên định và nhất quán triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Thứ hai, công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chính sách là then chốt, phải nắm chắc tình hình để xác định các giải pháp phù hợp và quyết liệt, sáng tạo, kịp thời trong triển khai.

Thứ ba, càng khó khăn, phức tạp, nhạy cảm thì càng phải bình tĩnh, sáng suốt, kiên trì, kiên định chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, luôn đổi mới phương pháp, cách làm phù hợp với tình hình mới, tất cả vì mục tiêu phục vụ đất nước và nhân dân. 

Thứ tư, sự chủ động, sáng tạo của các bộ, ngành, cơ quan đại diện ngoại giao cũng như tinh thần, trách nhiệm của từng cán bộ là hết sức quan trọng.

Thứ năm, cần huy động sự đoàn kết thống nhất, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp vì mục tiêu chung.

Kế thừa và áp dụng các bài học quý báu đó, bước vào năm mới 2023, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục nỗ lực hết sức mình triển khai công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, với phương châm “Quyết liệt, mạnh dạn, đột phá, thực chất, hiệu quả, khai thác và tranh thủ mọi cơ hội cho phát triển đất nước.

]]>
Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 https://doanhnhandautu.com/quy-hoach-tong-the-quoc-gia-thoi-ky-2021-2030-tam-nhin-den-nam-2050/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:09 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4419 Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã ký Nghị quyết số 81/2023/QH15 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. ]]>
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã ký Nghị quyết số 81/2023/QH15 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Nền kinh tế Việt Nam sẽ vận hành theo phương thức của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng chủ yếu
Nền kinh tế Việt Nam sẽ vận hành theo phương thức của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng chủ yếu

Nghị quyết nêu rõ, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam là nước phát triển, thu nhập cao, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; quản trị xã hội trên nền tảng xã hội số hoàn chỉnh.

Nền kinh tế vận hành theo phương thức của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng chủ yếu.

Việt Nam thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á; là một trung tâm tài chính khu vực và quốc tế; phát triển kinh tế nông nghiệp sinh thái giá trị cao thuộc nhóm hàng đầu thế giới.

Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, một trung tâm kinh tế biển của khu vực châu Á – Thái Bình Dương; tham gia chủ động, có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.

Giai đoạn 2031 – 2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 6,5 – 7,5%/năm. Đến năm 2050, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 27.000 – 32.000 USD, tỷ lệ đô thị hóa đạt 70 – 75%, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt từ 0,8 trở lên, đời sống của người dân hạnh phúc, quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.

Mục tiêu phát triển đến năm 2030, về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7%/năm giai đoạn 2021 – 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD.

Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp – xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 50%.

Phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế  – xã hội; tập trung phát triển hai vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với hai cực tăng trưởng là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hành lang kinh tế Bắc – Nam, hành lang kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, hành lang kinh tế Mộc Bài – Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước.

Phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; phấn đấu từ 3 – 5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững và gắn với đô thị hóa; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt trên 90%, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Nghị quyết cũng nêu rõ định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội, tổ chức không gian phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế – xã hội; xây dựng mô hình tổ chức, cơ chế điều phối vùng để thực hiện liên kết nội vùng và thúc đẩy liên kết giữa các vùng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.

Định hướng phát triển vùng và liên kết vùng gồm có: Vùng trung du và miền núi phía Bắc, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt khoảng 8 – 9%/năm.

Vùng Đồng bằng sông Hồng phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 9%/năm.

Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7 – 7,5%/năm.

Vùng Tây Nguyên phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7 – 7,5%/năm.

Vùng Đông Nam Bộ phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 8 – 8,5%/năm.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 6,5 – 7%/năm.

Nghị quyết xác định phát triển vùng động lực phía Bắc, bao gồm Thủ đô Hà Nội và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục quốc lộ 5 và quốc lộ 18 qua các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, trong đó, thành phố Hà Nội là cực tăng trưởng.

Phát triển vùng động lực phía Nam, bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục quốc lộ 22, quốc lộ 13, quốc lộ 1, quốc lộ 51 qua các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực.

Hình thành, phát triển vùng động lực miền Trung, bao gồm khu vực ven biển (các địa bàn cấp huyện từ đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đến biển) thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi; trong đó thành phố Đà Nẵng là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực.

Hình thành, phát triển vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long bao gồm thành phố Cần Thơ, các địa bàn cấp huyện của các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp gắn với khu vực kết nối các tuyến đường cao tốc (cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn Cần Thơ – Vĩnh Long, cao tốc An Hữu – Cao Lãnh, cao tốc Bắc – Nam phía Tây từ Cao Lãnh đến Rạch Sỏi) và thành phố Phú Quốc; trong đó thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực gắn với cảng biển Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.

Ngoài ra, từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng trung du và miền núi phía Bắc; khu vực Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) kết nối giữa miền Trung và đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Nguyên; khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (khu vực Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và phụ cận).

]]>
Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ Đổi mới xanh https://doanhnhandautu.com/viet-nam-se-duoc-huong-loi-tu-doi-moi-xanh/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:52 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4669 Bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam trao đổi với Báo Đầu tư về một số kinh nghiệm quốc tế và các khuyến nghị để Việt Nam có thể đạt được phát thải ròng bằng 0 vào giữa thế kỷ này.]]>
Bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam trao đổi với Báo Đầu tư về một số kinh nghiệm quốc tế và các khuyến nghị để Việt Nam có thể đạt được phát thải ròng bằng 0 vào giữa thế kỷ này.
Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ Đổi mới xanh
Bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam

Xin bà cho biết quan điểm cũng như đánh giá của mình về xu thế “phát triển xanh” trên thế giới hiện nay? Vấn đề môi trường được xem trọng thế nào trong quá trình phát triển kinh tế?

Tình trạng biến đổi khí hậu đang buộc các quốc gia phải tái cấu trúc nền kinh tế mạnh mẽ hơn. Mặc dù điều này có vẻ khó khăn, nhưng các cuộc khủng hoảng có thể là chất xúc tác cho sự thay đổi.

Trong thế giới “hậu Covid-19”, xu hướng phát triển ngày càng hướng tới tăng trưởng xanh. Chúng ta có cơ hội biến những thách thức hiện tại thành nền tảng cho một tương lai thịnh vượng và ổn định hơn bằng cách đầu tư vào một nền kinh tế xanh, có sức chống chịu và toàn diện ngay bây giờ.

Ví dụ, thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu thực sự lần đầu tiên – cuộc khủng hoảng xảy ra vào thời điểm chi phí năng lượng tái tạo tiếp tục giảm. Chỉ vài năm trước đây, điều này được coi là không thể, thì giờ đây đã có thể đạt được nhờ sự tiến bộ trong công nghệ và đổi mới. Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, vì vậy, giai đoạn này là thời điểm hoàn hảo để đánh giá lại quỹ đạo phát triển năng lượng hiện tại.

Môi trường và nền kinh tế có mối liên hệ với nhau. Một số người cho rằng, nền kinh tế là một tập hợp con của môi trường, vì chúng ta hoàn toàn dựa vào thiên nhiên để tồn tại. Cho dù bạn có đồng ý hay không, tôi nghĩ, điều quan trọng vẫn là phải hiểu rằng, đây không phải là một trò chơi có tổng bằng không, trong đó chỉ một bên có thể được hỗ trợ bằng chi phí của bên kia.

Một nền kinh tế xanh, giống như những gì Việt Nam đã đề ra trong Chiến lược Tăng trưởng xanh, là nền kinh tế thúc đẩy tăng trưởng dài hạn và tạo việc làm, đồng thời giải quyết các vấn đề như sức khỏe, biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học.

Ngoài việc tái cấu trúc nền kinh tế để hướng tới bền vững, chúng ta cũng đang phấn đấu đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững vào năm 2030. Quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo diễn ra vào thời điểm mà 760 triệu người trên thế giới vẫn chưa được tiếp cận điện. Tăng trưởng xanh cũng cần phải bền vững về mặt xã hội, trong đó gồm cả người nghèo, người dễ bị tổn thương,  phụ nữ, người dân sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa…

Bà đánh giá như thế nào về bức tranh môi trường ở Việt Nam và đâu là những “gam màu tối” về môi trường cần phải thay đổi?

Tôi hoan nghênh Chính phủ Việt Nam đã chủ động ứng phó trong giai đoạn chuyển tiếp này. Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu mới cung cấp một khuôn khổ rõ ràng để Việt Nam đạt được cam kết tại COP26 về mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Việt Nam cũng đã cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2022 với các mục tiêu thậm chí còn tham vọng hơn, lồng ghép kinh tế tuần hoàn vào các chiến lược phát triển của mình, ban hành Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. Than chiếm khoảng 1/3 tổng công suất lắp đặt và dựa trên các dự báo hiện tại, công suất phát điện quốc gia phải tăng gấp đôi vào năm 2030.

Theo đó, Việt Nam cần dần chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng của chính mình và xây dựng một ngành công nghiệp xanh hơn.

Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của Việt Nam cũng liên tục bị suy giảm trong hai thập kỷ qua, dẫn đến các vấn đề môi trường như ô nhiễm không khí và nước, suy giảm đa dạng sinh học và suy giảm các loài, suy thoái hệ sinh thái, mất an ninh nguồn nước và cạn kiệt tài nguyên, chưa kể việc suy giảm tổng thể những đóng góp cho phúc lợi của con người.

Việt Nam đang nỗ lực hướng đến nền kinh tế xanh cũng như thực hiện các cam kết tại COP26 để đạt được mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Vậy theo bà, trong bối cảnh bức tranh môi trường vẫn đang có quá nhiều “mảng nâu” hiện nay, Việt Nam cần triển khai một “cuộc cách mạng xanh” thế nào?

Đó là những thách thức. Quá trình này chắc chắn đòi hỏi sự chuyển đổi toàn xã hội và toàn ngành với vốn đầu tư ban đầu đáng kể.

Tiến bộ kỹ thuật trong những năm gần đây đã làm giảm chi phí của hệ thống năng lượng tái tạo đến mức có thể cạnh tranh với than, dầu và khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, năng lượng tái tạo cần nhiều vốn hơn, với chi phí ban đầu cao (dù chi phí bảo trì thấp hơn). Do đó, việc cung cấp nguồn vốn dài hạn với chi phí hợp lý là một hạn chế quan trọng trong việc chuyển đổi năng lượng.

Tài chính quốc tế có thể giúp ích, nhưng thực tế là, phần lớn vốn cần thiết cho quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ là nguồn vốn trong nước. Kết luận này dựa trên các xu hướng lịch sử, cũng như cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển.

Việt Nam đang nỗ lực hướng đến nền kinh tế xanh cũng như thực hiện các cam kết tại COP26 để đViệt Nam cần dần chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng của chính mình và xây dựng một ngành công nghiệp xanh hơn.Việt Nam cần dần chuyển đổi sang năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng của chính

Trên thế giới, cả các nước có thu nhập cao và các nước đang phát triển, phần lớn vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo đến từ các nguồn trong nước. Một lý do quan trọng là tài trợ nước ngoài tạo ra nghĩa vụ ngoại tệ, có giới hạn về số lượng vốn nước ngoài – các khoản vay và đầu tư trực tiếp – các nước đang phát triển có thể thu hút mà không gặp phải các vấn đề về cán cân thanh toán.

UNDP khuyến nghị các chính phủ xem xét việc thành lập một ngân hàng khí hậu khu vực công mới, có thể phối hợp với các đối tác quốc tế và khu vực tư nhân, để đa dạng hóa các nguồn tài chính trong nước cho quá trình chuyển đổi năng lượng và xanh hóa nền kinh tế.

Điều quan trọng không kém là giao thông xanh giúp cải thiện việc di chuyển, giảm ô nhiễm không khí và nâng cao sức khỏe của người dân. Việt Nam cần một môi trường thuận lợi để tận dụng tiềm năng này, đó có thể là một trong những cơ hội lớn nhất để hỗ trợ quá trình đưa mức phát thải ròng về 0, đồng thời mang lại những lợi thế to lớn về kinh tế – xã hội.

Tương tự, sống xanh và tiêu dùng xanh vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Người tiêu dùng đang trở nên hiểu biết hơn về thị trường và có ý thức về môi trường, đặc biệt là ở các thị trường quốc tế. Họ đang yêu cầu lượng khí thải carbon thấp hơn từ các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua.

Với tất cả những điều này, tôi nghĩ, người dân và nền kinh tế  Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ quá trình “đổi mới xanh”. “Đổi mới xanh” sẽ tạo tiền đề cho quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng, đồng thời tăng tốc sản xuất năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và bảo vệ những người dễ bị tổn thương.

Để đạt được cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 cũng như chuyển đổi thành công mô hình sản xuất theo hướng phát triển xanh, Việt Nam rất cần sự hỗ trợ của quốc tế. UNDP sẽ đồng hành, hỗ trợ Việt Nam thế nào trong công cuộc này, thưa bà?

UNDP, với sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản đang thực hiện Dự án “Thúc đẩy sự chuyển đổi bền vững hướng tới phương tiện giao thông điện tại Việt Nam”.

Ở cấp quốc gia, Dự án tập trung vào việc xây dựng chính sách và giới thiệu các tiêu chuẩn. Ở cấp địa phương, chúng tôi đang thí điểm triển khai xe tải điện và xe đạp điện tại Huế.

Chúng tôi cũng đang làm nhiều việc để thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn, chẳng hạn hỗ trợ xây dựng chính sách, đào tạo doanh nghiệp và khu vực tư nhân, phát triển các mô hình dựa vào cộng đồng để giải quyết vấn đề quản lý chất thải, tìm kiếm các giải pháp sáng tạo cho ô nhiễm rác thải nhựa đại dương và ra mắt Mạng lưới kinh tế tuần hoàn, một nền tảng công – tư để thu hút các bên liên quan trên khắp Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tuần hoàn.

Ở quy mô rộng hơn, cần phải đề ra một chương trình nghị sự, trong đó, phát triển kinh tế được kết hợp với khôi phục hệ sinh thái, giữ gìn đa dạng sinh học và chống biến đổi khí hậu. Các quỹ sẽ phải được phân bổ một cách chiến lược vào các giải pháp tài chính, như thanh toán cho các dịch vụ hệ sinh thái, du lịch dựa vào thiên nhiên và đóng góp của khu vực tư nhân. Đây đều là những can thiệp mà UNDP hướng đến để thúc đẩy xu hướng phát triển xanh mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai.

Cuối cùng, cần có sự thay đổi mang tính biến đổi trên tất cả các bộ phận của xã hội và nền kinh tế để ổn định về khí hậu, ngăn chặn sự mất mát đa dạng sinh học và vạch ra con đường dẫn đến tương lai bền vững mà chúng ta mong muốn.

]]>