#Kinh tế thế giới – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:25:16 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #Kinh tế thế giới – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Ngôi sao trên “bầu trời chạng vạng“ của kinh tế thế giới https://doanhnhandautu.com/ngoi-sao-tren-bau-troi-chang-vang-cua-kinh-te-the-gioi/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:32 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4936 Vượt qua trùng điệp những khó khăn trong nước và quốc tế, Việt Nam chạm mốc tăng trưởng hơn 8%, trở thành một ngôi sao sáng trên “bầu trời chạng vạng” của kinh tế thế giới 2022.]]>
Vượt qua trùng điệp những khó khăn trong nước và quốc tế, Việt Nam chạm mốc tăng trưởng hơn 8%, trở thành một ngôi sao sáng trên “bầu trời chạng vạng” của kinh tế thế giới 2022.
Ngôi sao trên “bầu trời chạng vạng“ của kinh tế thế giới
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright

“Bầu trời chạng vạng” của kinh tế thế giới 2022

Tín hiệu kém lạc quan về triển vọng của kinh tế thế giới trong năm 2022 đã được nhiều tổ chức quốc tế phát đi từ nửa cuối năm 2021. Thực tế cho thấy, tình hình còn khó khăn và ảm đạm hơn cả những dự báo bi quan nhất.

Xung đột Nga – Ukraine nổ ra ngày 24/2/2022 nằm ngoài những kịch bản dự báo của các tổ chức quốc tế, phủ thêm “bóng mây u ám” lên nền kinh tế thế giới vốn dĩ đã không mấy sáng sủa. Điều này có nghĩa là, thế giới bước vào năm 2022 với một bầu trời kinh tế “chạng vạng”.

Tháng 1/2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới ở mức 4,4%, tức giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra tháng 10/2021. Nhưng khi đó, không ai có thể dự đoán cuộc chiến Nga – Ukraine sẽ nổ ra và cuộc khủng hoảng giá năng lượng sẽ đạt đến đỉnh điểm trong năm 2022. Đến tháng 4/2022, khi tình hình kinh tế thế giới đã xấu đi rõ nét, dự báo của IMF đã giảm còn 3,6%, sau đó tiếp tục giảm xuống 3,2% trong dự báo đưa ra tháng 7 và tháng 10/2022.

Trong khi tăng trưởng đi xuống thì lạm phát lại tăng lên. “Bóng ma” lạm phát trở thành nỗi sợ hãi đối với các ngân hàng trung ương. Lạm phát chạm con số phi mã và là mức cao kỷ lục trong hàng thập niên ở Mỹ và châu Âu, khiến ngân hàng trung ương các nước này phải thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh tay. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã 7 lần tăng lãi suất cơ bản, đưa mức lãi suất từ 0,25% (đầu năm 2022) lên 4,25 – 4,5% (cuối năm 2022).

Chính sách này không chỉ ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng của các nền kinh tế đó, mà còn làm xáo trộn dòng chảy tài chính quốc tế, ảnh hưởng đến lãi suất và tỷ giá ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Tính từ đầu năm, đồng tiền của nhiều quốc gia đã mất giá mạnh so với USD, mạnh nhất là giai đoạn tháng 10 – 11/2022. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi tỷ giá VND/USD có những thời điểm “căng như dây đàn”. Để ứng phó với áp lực mất giá đồng nội tệ, nhiều nước đã phải bán ngoại tệ để can thiệp hoặc tăng lãi suất trong nước khiến cho đà phục hồi kinh tế bị ghìm giữ. Có lẽ, đã lâu rồi, thế giới mới lại rơi vào một trạng thái mà các nhà kinh tế gọi là lạm phát đình đốn (stagflation).

Có một Việt Nam “rạng đông”

Như đã phân tích, trong khi thế giới bước vào năm 2022 với một bầu trời kinh tế “chạng vạng”, thì với Việt Nam, lại là giai đoạn “rạng đông”. Do chịu tác động bởi Covid-19 muộn hơn 1 năm so với nhiều nước, nên năm 2022 mới là năm bắt đầu phục hồi kinh tế sau đại dịch của Việt Nam.

Với phương án thận trọng, Chính phủ chỉ đặt mục tiêu tăng trưởng năm 2022 ở mức 6 – 6,5%. Thực tế diễn ra cho thấy, kinh tế Việt Nam đã khởi đầu không quá xuất sắc trong quý đầu của năm, nhưng bắt đầu phục hồi một cách bền bỉ từ quý II, để rồi tăng vọt trong quý III và có phần chững lại, nhưng vẫn duy trì sức tăng trưởng khá trong quý IV/2022.

Có thể nói, mức tăng trưởng 8,02%, vượt đến 1,5 điểm phần trăm so với mục tiêu Chính phủ đề ra, đồng thời làm chệnh hầu hết các dự báo kinh tế năm 2022 của nhiều tổ chức trong và ngoài nước, là một dấu ấn tăng trưởng của Việt Nam theo lăng kính của các tổ chức quốc tế. Bà Kristalina Georgieva, Tổng giám đốc IMF cho rằng, Việt Nam vẫn là điểm sáng về tăng trưởng và ổn định tại khu vực ngay cả trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm. Đây là nhận xét chân thực và khá khách quan về bức tranh tổng quan kinh tế vĩ mô Việt Nam trong năm 2022.

Khó có thể đòi hỏi điều gì tốt hơn con số 8,02% tăng trưởng GDP và lạm phát bình quân chỉ 3,15% mà nền kinh tế Việt Nam đạt được trong một thế giới đầy bất trắc. Có một số nhận định cho rằng, đóng góp vào tăng trưởng cao của năm 2022 chủ yếu nhờ tăng trưởng quý III rất cao, lên đến 13,71%, mà tăng trưởng quý này cao là do nền tăng trưởng thấp của quý III/2021 (-6,02%).

Thực ra, nếu điều chỉnh yếu tố chu kỳ, thì động lực tăng trưởng chính của năm 2022 nằm ở quý II chứ không phải quý III. Cụ thể, nền kinh tế thực sự đã bắt nhịp tăng trưởng trở lại từ quý IV/2021 đến quý I/2022, tăng tốc mạnh từ quý II, sau đó có dấu hiệu yếu đi từ quý III và có phần khó khăn hơn từ quý IV/2022, chủ yếu do sức cầu của nền kinh tế thế giới suy giảm mạnh và một số trục trặc nảy sinh trên thị trường vốn và thị trường bất động sản của Việt Nam.

Song, tín hiệu khả quan là, các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó bao gồm TP.HCM và Hà Nội, đang bắt đầu lấy lại động lực tăng trưởng và vai trò đầu tàu kinh tế vốn có của mình.

Có một Việt Nam “rạng đông”Việt Nam vẫn là điểm sáng về tăng trưởng và ổn định tại khu vực ngay cả trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm.

– Bà Kristalina Georgieva, Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)

Nhìn trên phương diện vĩ mô, tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam chủ yếu được thúc đẩy từ phía tổng cung, khi số lượng lớn doanh nghiệp và nhà máy được mở cửa trở lại, thị trường lao động và các chuỗi cung ứng cũng được nối lại. Nếu không có cú sốc giá dầu, kinh tế Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn 8%.

Điều đáng mừng là, tăng trưởng khá đồng đều ở cả ba mặt trận: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, dịch vụ vốn là ngành chịu tác động nặng nề nhất do Covid-19 trong năm 2021, thì nay đã phục hồi tương đối tốt, đạt mức tăng trưởng gần 10%, qua đó đóng góp hơn 41% vào tăng trưởng của nền kinh tế. Cùng với đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục duy trì sức tăng trưởng khá cao, với mức tăng IIP hơn 8,1%, đóng góp hơn 24,8% GDP.

Ngoài ra, chúng ta cũng phải ghi nhận vai trò của ngành nông nghiệp trong năm 2022, với con số tăng trưởng giá trị gia tăng 3,36%, riêng xuất khẩu tăng 9,3% so với năm 2021, đạt kim ngạch 53,22 tỷ USD – mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Điều này rất ý nghĩa bởi tăng trưởng của ngành nông nghiệp luôn thể hiện sự đóng góp của hơn 30% lao động của nền kinh tế.

Nhìn ở phía tổng cầu, tiêu dùng cuối cùng duy trì mức tăng trưởng 7,18%, đóng góp gần 50% tổng cầu của nền kinh tế. Tổng đầu tư toàn xã hội tăng trưởng 11,2%, tương đương 33,85% GDP, song tích lũy tài sản chỉ tăng trưởng 5,75%, chiếm xấp xỉ 22,5% tổng cầu; còn lại hơn 28% được đóng góp bởi khu vực ngoại thương. Không có thành phần nào của tổng cầu tăng trưởng cao hơn sản lượng của nền kinh tế.

Điều này cho thấy, tăng trưởng tổng cầu của nền kinh tế năm 2022 chưa tương xứng với tổng cung. Nền kinh tế đang bị mất cân đối giữa sản lượng, thu nhập và tiêu dùng. Điều này cũng lý giải vì sao lạm phát nước ta tương đối thấp so với các nước khác. Chính sách tài khóa và tiền tệ giúp lý giải sức tăng trưởng chưa tương xứng của tổng cầu trong năm 2022.

Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tổng phương tiện thanh toán đến ngày 21/12/2022 chỉ tăng 3,85% so với cuối năm 2021. Trong khi đó, dư nợ tín dụng năm 2022 ước tăng khoảng 14,5% so với đầu năm. Nếu điều chỉnh cho tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ khoảng 4,5%, thì mức tăng trưởng dư nợ tín dụng thực xấp xỉ 10% cũng không phải là quá cao so với mức tăng trưởng GDP thực 8,02%.

Có thể nói, năm 2022 là một năm vô cùng khó khăn đối với Ngân hàng Nhà nước khi cơ quan này phải tìm cách dung hòa cùng lúc nhiều mục tiêu: ổn định tỷ giá mục tiêu, duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý để hỗ trợ phục hồi kinh tế, kiềm chế lạm phát mục tiêu, duy trì dự trữ ngoại hối ở mức an toàn, và đảm bảo thanh khoản, an toàn hệ thống ngân hàng.

Trong khi đó, chính sách tài khóa lại có một năm có thể gọi là “thảnh thơi” hơn khi tổng thu ngân sách ước vượt hơn 26,4% so với dự toán, tăng 13,8% so với năm 2021. Chi ngân sách dù tăng 8,1% so với năm 2021, nhưng mới chỉ bằng 87,5% dự toán. Chính vì vậy, cân đối ngân sách “tạm thời” bội thu 222.500 tỷ đồng, tương đương 2,3% GDP, thay vì theo dự toán là bội chi 372.900 tỷ đồng (4% GDP).

Đương nhiên, số liệu ngân sách vẫn còn thời gian để quyết toán, nhưng với số liệu hiện có, thì dường như đang có một mối quan hệ khó giải thích giữa tăng trưởng chi tiêu ngân sách với tăng trưởng GDP ở Việt Nam trong năm 2022. 

Dự cảm 2023 và các hàm ý chính sách

Năm 2023, dự cảm sẽ là một năm nhiều khó khăn và thách thức đối với kinh tế thế giới không kém năm 2022.

Đối với Việt Nam, 2023 là năm bản lề thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025, trong đó có mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5 – 7%/năm. Bởi vậy, việc Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng 6,5% trong năm 2023 là có thể hiểu được. Điều này vừa thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ, vừa cho thấy sự thận trọng hợp lý trong bối cảnh các dự báo cho năm 2023 tương đối kém lạc quan.

Với tốc độ tăng trưởng sản lượng tiềm năng của Việt Nam trong thập niên gần đây khoảng 6,6%/năm và lấy năm 2019 (thời điểm trước Covid-19) làm năm cơ sở, thì mức sản lượng đạt được trong năm 2022 mới chỉ tương đương 94% sản lượng tiềm năng.

Do đó, để khơi thông tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam không khó, mà cũng không dễ. Điều này đòi hỏi trong năm 2023, Chính phủ phải tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau: tiếp tục xử lý các di chứng kinh tế hậu Covid-19, trong đó có việc khơi thông trở lại thị trường lao động; ưu tiên hỗ trợ các sáng kiến của các vùng kinh tế động lực; thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược, nhất là việc tháo gỡ các trở ngại chính sách/pháp lý và nút thắt cơ sở hạ tầng; tận dụng các FTA để đa dạng hóa thị trường; phát huy vai trò và phối hợp hiệu quả chính sách tài khóa và tiền tệ; cải cách khu vực tài chính, nhất là thị trường vốn và xử lý các ngân hàng yếu kém.

]]>
Giải quyết các điểm nghẽn, bất cập cản trở sự phát triển của doanh nghiệp https://doanhnhandautu.com/giai-quyet-cac-diem-nghen-bat-cap-can-tro-su-phat-trien-cua-doanh-nghiep/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:58 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5390 Để nền kinh tế có thể tiếp tục phục hồi và phát triển, một trong những giải pháp được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh là phải giải quyết các điểm nghẽn, bất cập cản trở sự phát triển của doanh nghiệp.]]>
Để nền kinh tế có thể tiếp tục phục hồi và phát triển, một trong những giải pháp được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh là phải giải quyết các điểm nghẽn, bất cập cản trở sự phát triển của doanh nghiệp.
Giải quyết các điểm nghẽn, bất cập cản trở sự phát triển của doanh nghiệp
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng.

Thưa Bộ trưởng, chúng ta vừa bước vào năm Quý Mão 2023 với nhiều dự báo không thuận về kinh tế toàn cầu và Việt Nam. Chính Bộ trưởng cũng từng nói, đây là năm tiếp tục có những diễn biến bất định, khó lường. Vậy nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn, thách thức gì?

Năm 2022 đã khó khăn, năm 2023, tình hình kinh tế thế giới dự báo tiếp tục biến động rất phức tạp, khó lường, thậm chí khó khăn hơn năm 2022. Đó là tình trạng lạm phát tiếp tục duy trì ở mức cao; chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài kèm theo mất giá trị đồng tiền, giảm mạnh nhu cầu tiêu dùng tại nhiều quốc gia; thị trường bất động sản ở nhiều nước khó khăn hơn; khu vực doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề, thất nghiệp gia tăng dẫn đến nguy cơ bất ổn xã hội và chính trị ở một số nước…

Thậm chí, một số quốc gia có dấu hiệu rơi vào suy thoái kinh tế. Nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro, bất ổn tài chính, tiền tệ, nợ công, an ninh năng lượng, an ninh lương thực trên toàn cầu gia tăng… sẽ tác động mạnh, kéo dài, trên phạm vi lớn tới hầu hết các nền kinh tế.

Bối cảnh, tình hình thế giới nêu trên đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, tham mưu trong quá trình xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội năm 2023, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ tư, cũng như trong xây dựng Nghị quyết 01 của Chính phủ. Bối cảnh đó sẽ ảnh hưởng lớn tới kinh tế – xã hội Việt Nam.

Năm 2022, kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều ngành, lĩnh vực, hoàn thành và vượt nhiều chỉ tiêu. Khi thiết kế và đề xuất các gói chính sách phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến sau 2 năm triển khai sẽ giúp nền kinh tế phục hồi và chuẩn bị được những điều kiện để tăng trưởng nhanh, mạnh trong những năm tiếp theo.

Tuy nhiên, những biến động bất lợi của bối cảnh thế giới đã và đang gây cản trở, khó khăn, thách thức rất lớn đối với quá trình phục hồi và phát triển của nền kinh tế. Với độ mở lớn, nhiều động lực tăng trưởng của kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng, nhiều việc có thể làm tốt hơn, nhưng do ngoại cảnh nên chưa đạt kết quả như mong muốn.

Chẳng hạn, chuyện chi phí nguyên, nhiên vật liệu tăng cao dẫn đến chi phí logicstics, chi phí sản xuất, giá thành các gói thầu xây dựng tăng cao là một trong những nguyên nhân gây khó khăn, cản trở việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Rồi tỷ giá biến động nhanh, lãi suất tăng cao, chi phí vốn tăng gây khó cho doanh nghiệp trong tiếp cận vốn.

Việc các nền kinh tế lớn trên thế giới suy giảm tăng trưởng làm cho cầu hàng hóa xuất khẩu giảm, ảnh hưởng lớn đến kế hoạch tham gia sâu rộng và nâng cấp chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thành quả xây dựng và củng cố nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, cơ cấu lại hệ thống tín dụng, xử lý nợ xấu đang gặp nhiều thách thức lớn do doanh nghiệp khó khăn, nợ xấu gia tăng…

Vậy trong bối cảnh bất định và đầy khó khăn, thử thách đó, chúng ta phải “ứng vạn biến” ra sao?

Thời gian qua, chúng ta thường dùng các cụm từ như “bất định”, “phức tạp”, ‘khó lường” để nhận định về bối cảnh kinh tế thế giới. Để ứng phó với sự bất định này, điều quan trọng là chúng ta phải nâng cao năng lực phân tích và dự báo, đồng thời chủ động xây dựng các biện pháp cải cách và điều hành kinh tế vĩ mô.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời gian qua đã luôn nỗ lực để làm tốt nhiệm vụ này. Nhưng chúng tôi luôn tâm niệm rằng, không thể chỉ dừng ở tham mưu cách thức “ứng phó” với các thay đổi ở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước, mà xác định phải đi trước một bước, với các tham mưu cải cách nhằm nâng cao năng lực nội tại, mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế…

Phải nhìn nhận thẳng thắn, Việt Nam là một quốc gia đang trong hành trình đổi mới và hội nhập với thế giới, từng bước cố gắng thu hẹp khoảng cách và bắt kịp với các nước phát triển trong khu vực. Nền kinh tế của chúng ta có quy mô còn khá khiêm tốn, khả năng thích ứng, chống chịu trước những cú sốc đến từ bên ngoài còn hạn chế, nhưng lại có độ mở lớn, dễ bị ảnh hưởng từ các biến động, dù là nhỏ của thế giới.

Do đó, việc nâng cao năng lực chống chịu, tính tự cường của nền kinh tế, tạo tiền đề xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta trong tình hình mới. Đây là một định hướng, chủ trương nhất quán, được xác định rõ trong các nghị quyết, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội mà Đảng, Nhà nước đề ra.

Năm 2023 được dự báo có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Quốc hội đã quyết nghị mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5%. Làm thế nào để chúng ta có thể đạt được mục tiêu này, thưa Bộ trưởng?

Ngay sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 tại Kỳ họp thứ tư, Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng các nghị quyết triển khai thực hiện kết luận của Ban Chấp hành Trung ương và Quốc hội về triển khai thực hiện kế hoạch năm 2023. Đầu tháng 1/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khó khăn, thách thức nhiều hơn, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, cần quyết liệt, tập trung đẩy mạnh và triển khai nhanh hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của năm 2023 trên tinh thần đoàn kết, kỷ cương; bản lĩnh, linh hoạt; đổi mới sáng tạo; kịp thời, hiệu quả.

Cần kiên định, nhất quán với với quan điểm, mục tiêu, định hướng chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước. Đó là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô, phù hợp với thực tiễn.

Cùng với đó, tiếp tục chú trọng, nâng cao công tác hoàn thiện thể chế, thực thi pháp luật, tạo điều kiện khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; tạo chuyển biến rõ nét trong thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng.

Đồng thời, tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, bảo vệ môi trường; củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định, trật tự, an toàn xã hội để phát triển đất nước…

Nghị quyết số 01/NQ-CP đã đề ra 11 nhóm giải pháp trọng tâm, trong đó có việc cải cách thể chế, thúc đẩy giải ngân vốn vốn đầu tư công, tháo gỡ các điểm nghẽn về nguồn lực, cải thiện sức cạnh tranh…

Đây là những nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung thực hiện. Cùng với việc đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược, 12 nhóm nhiệm vụ giải pháp trọng tâm tại Chiến lược 10 năm, chúng ta sẽ không chỉ hóa giải khó khăn, thách thức trước mắt, mà còn nâng cao năng lực sản xuất trong nước, năng suất lao động, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh, khả năng tự chống chịu của nền kinh tế trước các yếu tố, thách thức mới từ bên ngoài trong trung và dài hạn.

Để kinh tế Việt Nam đạt mục tiêu đề ra, cũng như để tiếp tục tăng tốc, phát triển, nhiều ý kiến đã chỉ ra rằng, cần tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ khu vực doanh nghiệp phát triển. Bộ trưởng nghĩ sao về điều này?

Có thể nói, những ngày cuối năm 2022 và những tháng đầu năm 2023 tiếp tục là giai đoạn khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước. Hoạt động sản xuất – kinh doanh của khu vực này tiếp tục có khả năng bị thu hẹp, do áp lực về dòng tiền, lãi vay và thị trường xuất khẩu…

Thực hiện phương châm “Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp”, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nói riêng, cho nền kinh tế nói chung, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục kiến nghị Chính phủ giao các bộ, ngành liên quan tiếp tục triển khai quyết liệt, hiệu quả, thực chất, toàn diện Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội, trong đó có nhóm nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Bộ cũng kiến nghị Chính phủ xem xét cho ý kiến và chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện chính sách, rà soát, điều chỉnh nguồn lực từ các chính sách khó triển khai hoặc không thực hiện hết cho các chính sách còn dư địa, như chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà…

Cùng với đó, tiếp tục phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp thành kênh huy động vốn quan trọng, an toàn cho doanh nghiệp…; hoàn thiện cơ chế, chính sách về trái phiếu doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, ổn định và phát triển lành mạnh, an toàn, hiệu quả thị trường trái phiếu doanh nghiệp; nghiên cứu, đề xuất giải pháp tiếp tục chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất để giảm áp lực dòng tiền, hỗ trợ doanh nghiệp.

Đồng thời, tiếp tục phát triển và đa dạng hóa các kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp; phát triển những loại hình định chế tài chính trung gian mới; xem xét cho phép triển khai thí điểm tạo thêm lựa chọn cho nhà đầu tư và kênh hút vốn cho các doanh nghiệp.

Để tháo gỡ khó khăn cho khu vực doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang trình Chính phủ Dự thảo Nghị quyết về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2025, bao gồm nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện ngay trong ngắn hạn và nhóm giải pháp trong dài hạn.

Điều quan trọng là cần giải quyết các điểm nghẽn, bất cập làm cản trở doanh nghiệp phát triển; cởi trói, giải phóng tiềm lực của các doanh nghiệp khu vực tư nhân. Đồng thời, đổi mới các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp để đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trường.

]]>