# kinh tế 2023 – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:38:16 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # kinh tế 2023 – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Kinh tế 2023 và áp lực lạm phát https://doanhnhandautu.com/kinh-te-2023-va-ap-luc-lam-phat/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:38 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2273 Dù nền kinh tế đã đạt thắng lợi kép trong năm 2022, khi tăng trưởng GDP đạt ở mức cao (8,02%), lạm phát thấp (3,15%), nhưng rủi ro và áp lực lạm phát trong năm 2023 vẫn rất lớn, đòi hỏi phải thận trọng trong điều hành.]]>
Dù nền kinh tế đã đạt thắng lợi kép trong năm 2022, khi tăng trưởng GDP đạt ở mức cao (8,02%), lạm phát thấp (3,15%), nhưng rủi ro và áp lực lạm phát trong năm 2023 vẫn rất lớn, đòi hỏi phải thận trọng trong điều hành.
Kinh tế 2023 và áp lực lạm phát
Caption ảnh

Trên thực tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát luôn là mục tiêu ưu tiên trong điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong nhiều năm gần đây. Tuy vậy, với một nền kinh tế mở như Việt Nam, nguy cơ “nhập khẩu” lạm phát là rất lớn, áp lực lạm phát luôn chực chờ, thì càng cần phải thận trọng hơn trong điều hành.

Chính phủ Việt Nam, có thể nói, đã rất thành công trong điều hành giá cả thị trường để kiểm soát lạm phát trong năm 2022. Đây chính là năm mà lạm phát “càn quét” kinh tế toàn cầu, đặc biệt ở khu vực châu Âu và Mỹ.

Một vài ví dụ cụ thể: lạm phát của khu vực đồng Euro tháng 11/2022 tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2021; lạm phát của Mỹ tăng 7,1% và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ. Tại châu Á, lạm phát tháng 11/2022 của Thái Lan tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2021.

Tỷ lệ lạm phát của Hàn Quốc tăng 5%; Indonesia tăng 5,4%; Trung Quốc tăng 1,6%; Nhật Bản tăng 3,8%… Cao hơn năm 2021, thậm chí là kỷ lục trong vài chục năm qua là điều được các chuyên gia nhắc đến rất nhiều khi nói về lạm phát trên toàn cầu năm 2022.

Nhưng ngược dòng thế giới, Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát ở mức 3,15%, dù trong suốt cả năm, nền kinh tế luôn phấp phỏng lo lạm phát cao quay trở lại. Đó là một thành tựu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được nhiều định chế tài chính nước ngoài đánh giá cao.

Tuy vậy, khi năm 2023 chỉ còn cách năm 2022 một bước chân, thì nỗi ám ảnh lạm phát đã quay trở lại.

Dù về số liệu thống kê, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) bình quân chỉ tăng 3,15%, nhưng chính những người tiêu dùng mới thấy “hơi nóng” của lạm phát lớn thế nào, khi giá cả hàng hóa ngoài chợ, trong siêu thị không ngừng tăng.

Doanh nghiệp càng thấy “nóng” hơn, thậm chí là “nóng rát”, khi giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng nhanh trong năm vừa qua. Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố, Chỉ số Giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất trong năm 2022 tăng 6,79% so với năm trước. Trong đó, chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 9,88%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,53%; dùng cho xây dựng tăng 6,96%…

Thậm chí, nếu chỉ nhìn vào số liệu CPI, cũng có những điều cần phải lo. Bởi lẽ, dù tính bình quân, CPI năm 2022 của Việt Nam chỉ tăng 3,15%, nhưng so với tháng 12 năm trước, CPI vẫn tăng 4,55% – một mức khá cao. Trong đó, riêng CPI bình quân quý IV/2022 tăng 4,41% so với cùng kỳ năm trước.

Và dù Việt Nam thuộc nhóm các nước có mức lạm phát thấp so với mặt bằng chung, khi CPI tháng 12/2022 tăng 4,55% so với cùng kỳ năm trước đi chăng nữa, thì cũng vẫn cao hơn lạm phát của Nhật Bản và Trung Quốc.

Xu hướng tăng giá này cho thấy, áp lực lạm phát trong năm 2023 là hiện hữu. Hơn thế, còn rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường, lạm phát trong năm tới. Đầu tiên là việc giá cả nhiều mặt hàng đang tăng cao, có thể sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn, nhất là khi hai kỳ nghỉ Tết Dương lịch và Âm lịch cận kề.

Không những thế, điều quan trọng là bước sang năm 2023, một số biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, như giảm thuế giá trị gia tăng, giảm một số loại phí, lệ phí, giảm thuế môi trường, xăng dầu, các chính sách hỗ trợ người lao động… sẽ kết thúc. Nếu không tiếp tục được gia hạn, sẽ tác động ngay tới CPI.

Chưa kể, việc tăng lương, rồi điều chỉnh giá một số sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước quản lý, như giá điện, học phí…, vốn đang được trì hoãn, nếu được thực thi trong năm 2023 cũng sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng CPI của cả nước.

Dù áp lực lạm phát toàn cầu năm 2023 được dự báo không căng thẳng như năm 2022, nhưng ở trong nước, rất nhiều yếu tố có thể tác động đến lạm phát. Trong đó, bao gồm cả việc gói đầu tư công lên tới hơn 700.000 tỷ đồng sẽ được đưa vào nền kinh tế trong năm tới. Việc một ngân khoản lớn của Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội phải hoàn tất giải ngân trong năm 2023 cũng sẽ đổ một lượng tiền lớn vào nền kinh tế.

Không phải ngẫu nhiên mà khi quyết nghị các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội 2023, Quốc hội đã bấm nút thông qua mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức 4,5%, thay vì dưới 4% như năm 2022. Chỉ điều đó cũng cho thấy, nỗi lo lạm phát lớn chừng nào.

Nếu không thận trọng trong điều hành, “bóng ma” lạm phát sẽ ám ảnh nền kinh tế.

]]>
Năng lượng của nền kinh tế đang chảy trong lòng doanh nghiệp https://doanhnhandautu.com/nang-luong-cua-nen-kinh-te-dang-chay-trong-long-doanh-nghiep/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:28 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2450 Hơn 200.000 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong năm 2022 không chỉ là dấu mốc đáng nhớ trong hoạt động đăng ký kinh doanh. ]]>
Hơn 200.000 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong năm 2022 không chỉ là dấu mốc đáng nhớ trong hoạt động đăng ký kinh doanh.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho rằng, năng lượng của nền kinh tế đang chảy mạnh trong sự hồi phục của cộng đồng doanh nghiệp.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông.

Thưa Thứ trưởng, có thể nói, bức tranh về tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2023 đang được mở ra với nguồn năng lượng mới, khi lần đầu tiên số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong năm (năm 2022) vượt mốc 200.000?

Có thể nói ngay rằng, các chính sách của Chính phủ về phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, trong đó nổi bật là Nghị quyết số 11/NQ-CP, thực sự là một “liều thuốc” hữu hiệu giúp doanh nghiệp, nền kinh tế phục hồi.

Điều quan trọng, những quyết tâm mạnh mẽ của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đưa nền kinh tế của nước ta sớm vượt qua giai đoạn nhiều khó khăn, thử thách để phục hồi và phát triển đã thúc đẩy niềm tin kinh doanh của doanh nghiệp, người dân.

Những con số doanh nghiệp đăng ký mới ngay trong quý đầu tiên của năm 2022 đã thể hiện rõ điều này, vì khi đó, dù dịch bệnh Covid-19 vừa được kiểm soát, nhưng hậu quả để lại vẫn rất nặng nề.

Quý I/2022 có 34.590 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2021 và là mức cao nhất trong quý I từ trước đến nay.

Đà phục hồi ấn tượng của quý I/2022 đã tạo nên hiệu ứng tích cực, lan tỏa trong nền kinh tế. Số doanh nghiệp gia nhập thị trường trong quý II/2022 là 41.643 doanh nghiệp, cũng là mức kỷ lục trong giai đoạn này.

Đặc biệt, với 15.001 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tháng 4/2022 trở thành tháng có số lượng doanh nghiệp thành lập mới cao nhất từ trước đến nay khi lần đầu tiên trong lịch sử đăng ký kinh doanh, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong một tháng vượt mốc 15.000 doanh nghiệp.

Năm 2022 khép lại với con số kỷ lục 148.533 doanh nghiệp gia nhập thị trường, tăng 27,1% so với năm 2021, gấp 1,1 lần mức bình quân giai đoạn 2017 – 2021 (129.611 doanh nghiệp).

Bên cạnh đó, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2022 cũng ghi dấu ấn với 59.835 doanh nghiệp, qua đó, góp phần đưa số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường lần đầu tiên vượt mốc 200.000 doanh nghiệp (208.368 doanh nghiệp), gấp 1,5 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong năm qua.

Phải nhấn mạnh rằng, con số kỷ lục trên được cộng đồng doanh nghiệp thiết lập trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức khó đoán định. Đó là những bất ổn do tác động từ cuộc xung đột Nga – Ukraine; giá năng lượng, hàng hóa cơ bản tăng mạnh, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, lạm phát tăng cao tại nhiều quốc gia, đối tác lớn của nước ta; đầu tư, thương mại giảm sút, dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng rõ nét, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam bị thu hẹp, tăng trưởng kinh tế của các nước chậm lại…

Thưa Thứ trưởng, có thể nói, bức tranh về tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2023 đang được mở r
Cộng đồng doanh nghiệp Việt vẫn giữ vững tinh thần mạnh mẽ, nhiều doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng sản xuất, kinh doanh trong năm 2023.

Tuy nhiên, bước vào năm 2023, có vẻ như những khó khăn, thách thức vẫn chưa giảm đi với cộng đồng doanh nghiệp, thưa Thứ trưởng?

Thực tế là, sau hơn 2 năm gồng mình chống dịch, khả năng chống chịu của nền kinh tế và doanh nghiệp bị bào mòn đáng kể.

Thêm nữa, với độ mở của nền kinh tế lớn, khi những tác động tiêu cực từ bên ngoài, nhất là bắt đầu từ quý IV/2022 và tồn tại tích tụ lâu nay của nền kinh tế tác động mạnh đến thị trường, thì doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp.

Điều này phần nào được thể hiện qua việc quy mô vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp có xu hướng giảm, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới giảm và có xu hướng chững lại trong những tháng cuối năm 2022, thấp nhất trong nhiều năm qua. Số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường cũng có sự gia tăng so với năm trước.

Nhưng có một điều tôi muốn chia sẻ là cộng đồng doanh nghiệp vẫn giữ vững tinh thần khởi sự kinh doanh mạnh mẽ, cũng như niềm tin vào các giải pháp, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự phục hồi của thị trường, nền kinh tế trong năm 2023.

Chúng tôi nhìn thấy điều này từ kết quả cuộc khảo sát về “Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp năm 2022” trên Cổng Thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp từ ngày 29/11/2022 đến ngày 20/12/2022.

51,2% doanh nghiệp tham gia khảo sát có kế hoạch mở rộng sản xuất, kinh doanh và 51% doanh nghiệp cho rằng, tình hình sản xuất, kinh doanh của mình sẽ tốt lên trong năm 2023.

Dù vậy, số doanh nghiệp gặp khó khăn cũng vẫn lớn. Có 84,7% doanh nghiệp tham gia khảo sát đang gặp khó khăn, trong đó chủ yếu là các vấn đề về chi phí nguyên liệu đầu vào, nhân công ngày một gia tăng (51,8% doanh nghiệp lựa chọn); tiếp cận thị trường, tìm kiếm khách hàng, vận chuyển (48,7%); sức mua giảm sút, hàng tồn kho (44,1%); tiếp cận nguồn vốn (38,6%)…

Đặc biệt, doanh nghiệp đang nhắc nhiều đến khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng. 43% doanh nghiệp cho rằng, lãi suất cho vay cao; 35,8% doanh nghiệp có ý kiến rằng, thủ tục vay vốn phức tạp, tốn nhiều thời gian; 35,3% doanh nghiệp không tiếp cận được các gói hỗ trợ lãi suất của Nhà nước; 31,7% doanh nghiệp không có tài sản thế chấp.

Chỉ số ít doanh nghiệp cho rằng, khó khăn khi tiếp cận vốn tín dụng đến từ những nguyên nhân nội tại của doanh nghiệp…

Điều này cho thấy, dù doanh nghiệp và người dân cảm nhận được nỗ lực đồng hành, hỗ trợ của Chính phủ để cùng vượt qua giai đoạn khó khăn nhằm phục hồi và phát triển, nhưng vẫn cần thêm sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa, nhất là khu vực ngân hàng và các tổ chức tín dụng, để doanh nghiệp tiếp tục vượt lên, tận dụng cơ hội để tìm lại đà tăng trưởng mạnh mẽ.

Thưa Thứ trưởng, để tạo động lực cho nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng, thúc đẩy niềm tin kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp, năm 2023 sẽ cần thêm những giải pháp gì?

Cải cách môi trường kinh doanh là giải pháp không thể thiếu và là trọng tâm được chú trọng trong những năm qua. Sang năm 2023, nhiều tổ chức cũng dự báo, kinh tế nước ta thậm chí sẽ khó khăn và thách thức hơn.

Vì thế, những giải pháp cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh cần được coi trọng hơn, cụ thể hơn, có địa chỉ hơn và nỗ lực thực thi phải mạnh mẽ hơn.

Để tiếp tục thực thi cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh một cách có hiệu quả và trách nhiệm, kiến nghị lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cùng với Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục coi trọng cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; trực tiếp tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 02/2023/NQ-CP của Chính phủ một cách nhất quán, đầy đủ; chú trọng các giải pháp phù hợp với bối cảnh mới, khắc phục những bất cập đang tạo rào cản đối với doanh nghiệp và người dân; góp phần hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển.

Đặc biệt, cần có cơ chế tạo động lực khuyến khích đổi mới, sáng tạo trong cán bộ, công chức thực thi công vụ; thúc đẩy các hoạt động đối thoại, trao đổi với người dân và doanh nghiệp thực chất hơn; giải quyết ngay được các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, chứ không chỉ là lắng nghe vấn đề của doanh nghiệp.

Người dân và doanh nghiệp chắc chắn sẽ cảm nhận được nỗ lực đồng hành, hỗ trợ của Chính phủ và có thêm niềm tin vào sự phục hồi của nền kinh tế.

]]>
CIEM: Năm 2023, GDP Việt Nam có thể tăng trưởng 6,83% https://doanhnhandautu.com/ciem-nam-2023-gdp-viet-nam-co-the-tang-truong-683/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:15 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3629 CIEM khuyến nghị, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục cải cách, Việt Nam có dư địa thúc đẩy các biện pháp tài khóa, tiền tệ giúp nhanh phục hồi tăng trưởng kinh tế.]]>
CIEM khuyến nghị, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục cải cách, Việt Nam có dư địa thúc đẩy các biện pháp tài khóa, tiền tệ giúp nhanh phục hồi tăng trưởng kinh tế.

Sáng nay (12/1), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố dự báo triển vọng kinh tế 2023, với hai kịch bản.

Theo kịch bản 1 – kịch bản khả thi nhất – tăng trưởng kinh tế năm 2023 có thể đạt mức 6,47%. Mức này xấp xỉ với chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 mà Chính phủ xác định, là 6,5%. Ở kịch bản 2, tăng trưởng có thể đạt tới 6,83%.

“Nếu tiếp tục cải cách nhanh, tăng năng suất, kịch bản 2 có thể là mục tiêu đạt được”, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) nói trong Hội thảo Kinh tế Việt Nam năm 2022 và triển vọng 2023.

CIEM: Năm 2023, GDP Việt Nam có thể tăng trưởng 6,83%
2 kịch bản dự báo kinh tế năm 2023 của CIEM

Tại Hội thảo, CIEM cũng công bố Báo cáo “Kinh tế Việt Nam năm 2022 và triển vọng 2023” do CIEM và Tổ chức Hợp tác phát triển Đức GIZ phối hợp thực hiện.

Theo đánh giá của các chuyên gia, trong năm 2022, Việt Nam đã tiếp tục thực hiện “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19”. Dịch Covid-19 tiếp tục được kiểm soát hiệu quả. Việt Nam đã dỡ bỏ các biện pháp hạn chế đối với xuất nhập cảnh…

Việc triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội được thực hiện quyết liệt. Chính phủ đã có những hành động quyết liệt để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Các giải pháp tháo gỡ khó khăn về nguồn cung xăng dầu trong nước, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu đã được thực hiện khẩn trương, hiệu quả nhằm giảm chi phí sử dụng xăng dầu cho doanh nghiệp và người dân.

Việt Nam đã tiếp tục cải cách thể chế kinh tế nhằm tạo không gian kinh tế lớn hơn, thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tư nhân. Nhiều nội dung mới, đột phá về chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, phát triển vùng… đã được ban hành. Công tác truyền thông chính sách cũng được lưu tâm, thực hiện hiệu quả hơn.

Nhờ đó, kinh tế Việt Nam tiếp tục đà phục hồi tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm 2022. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 13,67% trong quý III/2022, và 5,92% trong quý IV/2022. Tính chung cả năm 2022, tốc độ tăng GDP đạt 8,02%, cao hơn đáng kể so với mục tiêu đề ra (6-6,5%). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2022 tăng 3,15%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu Quốc hội đề ra. Tuy nhiên, CPI tăng nhanh hơn trong nửa cuối năm 2022.

Hoạt động đầu tư đã có sự phục hồi tích cực. Tổng đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2022 ước đạt hơn 3,2 triệu tỷ đồng (giá hiện hành), tăng 11,2% so với năm 2021, cao hơn so với tốc độ tăng đầu tư trước dịch COVID-19. Đầu tư của khu vực nhà nước tăng nhanh nhất (14,6%), tiếp đó là của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (13,9%). Chính phủ, các Bộ ngành và địa phương đã có nhiều nỗ lực thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, song giải ngân vốn đầu tư công của cả nước vẫn tương đối chậm so với kế hoạch năm 2022.

Tổng lượng vốn FDI đăng ký tính đến 20/12/2022 đạt 27,72 tỷ USD, bằng 89% so với cùng kỳ năm 2021. Phân ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tới 60,6% tổng vốn FDI đăng ký. Vốn FDI thực hiện đạt 22,4 tỷ USD trong năm 2022, tăng 13,7% so với 2021, và tăng 10% so với 2019.

Việt Nam đang cho thấy hình ảnh một quốc gia đang nỗ lực hiện thực hóa những cam kết mạnh mẽ và định hướng rõ ràng từ Hội nghị COP26 về thu hút đầu tư chất lượng cao hướng đến nền kinh tế trung hòa các-bon và tăng trưởng xanh, CIEM cho hay.

Hoạt động xuất khẩu của cả nước giữ đà tăng trưởng dương, dù có xu hướng chậm lại nửa cuối năm 2022. Tính chung cả năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,4%, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 360,65 tỷ USD, tăng 8,4%. Cán cân thương mại đạt thặng dư, ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD, ghi dấu ấn xuất siêu 7 năm liên tiếp.

Nhận định về kinh tế Việt Nam 2023, CIEM cho rằng, có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố hơn như khả năng kiểm soát sự lây lan của các biến thể virus SARS-CoV-2 và các dịch bệnh mới, gia tăng cạnh tranh địa chính trị, xung đột Nga – Ukraina có thể kéo dài, mức độ thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế chủ chốt nhằm xử lý áp lực lạm phát.

Trong khi đó, các yếu tố trong nước được CIEM lưu ý là tiến độ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. CIEM cho rằng, nếu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, Việt Nam có thể tiếp tục cải cách và thúc đẩy các biện pháp tài khóa, tiền tệ giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, tăng trưởng kinh tế sẽ phụ thuộc đáng kể vào khả năng đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, gắn với tận dụng cơ hội từ các FTA và xử lý các rủi ro gắn với đối đầu thương mại – công nghệ giữa các siêu cường, xu hướng giảm giá của các đồng tiền ở khu vực so với USD,…

Báo cáo  nhấn mạnh lại thông điệp về việc ưu tiên chính sách cần tiếp tục tập trung vào cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn với đổi mới sáng tạo và môi trường, gắn với xử lý hiệu quả những rủi ro trong môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động.

]]>
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Cùng làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế https://doanhnhandautu.com/bo-truong-bo-ke-hoach-va-dau-tu-nguyen-chi-dung-cung-lam-nen-nhung-dieu-ky-dieu-moi-trong-phat-trien-kinh-te/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:56 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4579 Tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần tiên phong đổi mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn mong mỏi sẽ cùng với các cán bộ, nhân viên bản lĩnh, trí tuệ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nuôi khát vọng đồng hành cùng dân tộc, để làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.]]>
Tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần tiên phong đổi mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn mong mỏi sẽ cùng với các cán bộ, nhân viên bản lĩnh, trí tuệ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nuôi khát vọng đồng hành cùng dân tộc, để làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Cùng làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng.

Chung tay “vẽ hình hài” đất nước

Ngày 9/1/2023 có lẽ là một ngày đặc biệt đối với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Bởi ngày đó, tại kỳ họp bất thường lần thứ hai, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Nhìn ông rạng rỡ nụ cười, mắt lấp lánh niềm vui, sẽ hiểu ông đã vui thế nào khi Quy hoạch Tổng thể quốc gia được thông qua. Đó là thành quả của bao năm nỗ lực, bao tháng ngày suy tư, nghiên cứu của không chỉ cá nhân ông, mà còn của biết bao cán bộ, chuyên viên, chuyên gia, tư vấn, nhà khoa học…

“Đây là một công trình nghiên cứu hết sức đồ sộ và công phu, nghiêm túc, khoa học, với 41 hợp phần, gần 7.000 trang tài liệu.

Chung tay “vẽ hình hài” đất nướcNhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, dũng cảm vượt qua chính mình, vì lợi ích chung của đất nước, của dân tộc.Nhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới

– Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng

Gần 30 cơ sở viện, trường nghiên cứu, khoảng 100 nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế về quy hoạch tham gia công trình này”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã nói như vậy tại kỳ họp bất thường của Quốc hội, diễn ra vào những ngày đầu năm mới 2023.

Có lẽ, lần đầu tiên việc xây dựng quy hoạch được thực hiện công phu đến vậy. Không chỉ Quy hoạch Tổng thể quốc gia, ngành quốc gia, mà cả quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh cũng thế. Nghe nói, để chuẩn bị cho việc thẩm định quy hoạch, có địa phương đã chở cả một xe tải hồ sơ, tài liệu lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan thường trực của Hội đồng Thẩm định quy hoạch tỉnh để phục vụ công tác thẩm định. 

Sau khi Luật Quy hoạch được thông qua, tháng 9/2018, Chính phủ đã quyết định thành lập Hội đồng Quy hoạch quốc gia, mà Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng là Phó chủ tịch. Kể từ ngày ấy, ông cùng các cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mày mò nghiên cứu, tìm hiểu, kể cả đi khảo sát, học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài, rồi trăn trở hết ngày này qua tháng khác cùng các chuyên gia tư vấn, các nhà nghiên cứu, các bộ, ngành… để có thể “vẽ hình hài” đất nước.

Để đến bây giờ, “hình hài” ấy đã được định hình. Từ một bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, đến “khung” các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, nhằm đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng… Từ xác định được các vùng động lực, các cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia…, đến phác thảo các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Đông –  Tây, các vành đai kinh tế ven biển, các vành đai công nghiệp – đô thị – dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn…

Lúc Quy hoạch Tổng thể quốc gia được đưa ra Quốc hội thảo luận, cũng còn có ý kiến khác, ý kiến mang tính phản biện. Cũng dễ hiểu thôi, bởi đây là lần đầu tiên một bản quy hoạch tổng thể quốc gia được lập theo hướng tích hợp, rất khó và chúng ta chưa có kinh nghiệm. Nhưng Bộ trưởng rất cương quyết, “chỉ có thế tiến lên, quyết không lùi”.

Quyết không lùi là bởi quy hoạch này có tính dẫn dắt, mang tính nền tảng cho các quy hoạch khác, rất cấp thiết và quan trọng. Không kịp thông qua, sẽ ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành và các quy hoạch tỉnh khác. Không kịp thông qua, có thể sẽ bỏ lỡ cả một cơ hội phát triển của đất nước.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng đã quyết liệt khẳng định điều này cách đây ít năm, khi Luật Quy hoạch được đưa ra lấy ý kiến Quốc hội. Ông nói, Luật Quy hoạch chậm thông qua ngày nào sẽ ảnh hưởng đến tương lai phát triển của đất nước ngày ấy, thậm chí làm lỡ cả một thập kỷ phát triển ở phía trước. Quyết liệt thế, nên ông chẳng ngại động chạm, sẵn sàng “xông pha” trên mọi mặt trận để bảo vệ bằng được quan điểm của mình. Đó là phải làm một “cuộc cách mạng” trong công tác quy hoạch, nếu không sẽ vẫn tái diễn tình trạng quy hoạch manh mún, chồng chéo, kém hiệu quả, thiếu tính thị trường như bao lâu nay.

Thế nên, mới có chuyện từ 3.650 quy hoạch giảm chỉ còn 111 quy hoạch như hiện nay. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng nhất và khó nhất là thiết kế Quy hoạch Tổng thể quốc gia. Ngoài ra, phải xây dựng 6 quy hoạch vùng, 63 quy hoạch của các tỉnh và 39 quy hoạch của các ngành.

Suốt cả quá trình đồng hành với các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia trong xây dựng quy hoạch thời kỳ mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn nói rằng, công tác quy hoạch được ví như “người công binh mở đường”. Nếu mở đường thắng lợi, thì cuộc chiến sẽ thắng lợi, còn nếu làm không tốt sẽ dẫn đến thất bại, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước.

“Xây dựng Quy hoạch Tổng thể quốc gia là cơ hội bố trí, sắp xếp lại không gian phát triển của quốc gia để đạt mục tiêu, khát vọng mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao…”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng luôn nhấn mạnh điều này.

Bởi thế, việc Quốc hội thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia, quan trọng hơn hết, với Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, là có thể giúp “vạch đường đi” cho sự phát triển của đất nước. Cũng tương tự như thế, các quy hoạch tỉnh, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành sẽ là “kim chỉ nam” cho sự phát triển của tỉnh, của vùng và của các ngành kinh tế quốc gia.

“Công việc còn nặng nề lắm”, Bộ trưởng nói thế. Bởi cho tới giờ này, vẫn còn 5 quy hoạch vùng, 42 quy hoạch tỉnh chưa được thẩm định để hoàn thành, trình cấp có thẩm quyền quyết định, mà thời gian thì gấp gáp lắm rồi. Bộ Kế hoạch và Đầu tư không chỉ tham gia hướng dẫn, mà còn là cơ quan thường trực của Hội đồng Thẩm định, rồi hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, còn Bộ trưởng là Chủ tịch Hội đồng Thẩm định. Với hơn 30 quy hoạch ngành, dù không chủ trì, nhưng Bộ trưởng và các cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng vẫn phải cùng tham gia.

Suốt cả năm thấy ông và các cán bộ của mình bận rộn cho công tác lập quy hoạch. Hơi chậm so với tiến độ, nên càng về cuối năm, công việc càng áp lực nặng nề. Có tuần, 4 – 5 cuộc họp thẩm định quy hoạch được tổ chức. Cần kíp và phải đẩy nhanh, nhưng ông vẫn luôn nói rằng, phải đặt chất lượng lên hàng đầu và phải coi đây là cơ hội tổ chức, sắp xếp lại không gian phát triển, nhằm phát huy được tiềm năng, tận dụng được thế mạnh của từng vùng, khu vực, địa phương, từng ngành và lĩnh vực, tạo ra các động lực và cực tăng trưởng mới cho đất nước.

Tất cả là vì sự phát triển của dân tộc, của đất nước, vì một tương lai phát triển vững bền hơn trên con đường đi tới thịnh vượng! 

Nhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới
Việc Quốc hội thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia giúp “vạch đường đi” cho sự phát triển của đất nước.

Cùng làm nên những điều kỳ diệu trong phát triển kinh tế

Nụ cười của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, một năm trước, cũng rạng rỡ như thế ở phòng họp Diên Hồng. Bởi, cũng tầm này năm ngoái, Quốc hội đã chính thức thông qua gói tài chính, tiền tệ quy mô lớn nhất từ trước tới nay để thực hiện Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội 2022-2023, mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư và cá nhân Bộ trưởng, với tư cách là “Tư lệnh” của cơ quan tham mưu tổng hợp về điều hành kinh tế – xã hội, đề xuất.

Năm ngoái, Quốc hội quyết định tổ chức kỳ họp bất thường đầu tiên chủ yếu là để thông qua gói kích thích kinh tế đó. Năm nay, trọng tâm của kỳ họp bất thường thứ hai, chính là để thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia. Năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã họp phiên bất thường để thông qua gói hỗ trợ cho các doanh nghiệp, người lao động bị ảnh hưởng bởi Covid-19…

Họp bất thường, bởi đó đều là các quyết sách quan trọng, cần sớm được thông qua. Và người tham mưu cho các chính sách đó, không ai khác, chính là Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, với tư cách là “Tư lệnh” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Thế nên, khi tham dự và chỉ đạo Hội nghị Tổng kết năm 2022 và Phương hướng nhiệm vụ năm 2023 của ngành Kế hoạch – Đầu tư và Thống kê mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã nhắc lại nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, rằng “Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tổng tham mưu có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng”, để khẳng định những đóng góp to lớn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng như cá nhân Bộ trưởng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.

Thủ tướng còn nói, Bộ đã làm được rất nhiều việc, nhưng không nêu vào trong báo cáo, bởi còn bận lo việc chung, lo việc đất nước nhiều quá. Nghe Thủ tướng nói vậy, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng mỉm cười, bởi những đóng góp của toàn ngành đã được ghi nhận.

Ba năm nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 là ba năm Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng và các cán bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư bận rộn, vất vả vô cùng. Theo dõi từng biến động của dịch bệnh, diễn biến của kinh tế toàn cầu và trong nước, theo sát các hoạt động của doanh nghiệp, nhà đầu tư, tiến độ triển khai từng dự án… để có đề xuất, tham mưu các giải pháp kịp thời, vừa để gỡ khó, vừa để tạo nền tảng cho sự phát triển của nền kinh tế trong tương lai.

Nhờ thế, vượt thách thức Covid-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng dương. Đặc biệt, năm 2022, nền kinh tế phục hồi ngoạn mục, đạt mức tăng trưởng lên tới 8,02%. Có được điều đó là nhờ sự chủ động, linh hoạt trong điều hành của Chính phủ, sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, nhưng khởi đầu phải là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tham mưu chính sách. Không chỉ là các nghị quyết 01 như thường niên, mà còn là một chương trình tổng thể để phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Giữa năm 2021, những phác thảo đầu tiên của Chương trình được Bộ trưởng chỉ đạo các cán bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, sau đó được hoàn thiện dần, với mục tiêu rất rõ ràng là phải có quy mô đủ lớn, thời gian thực hiện đủ dài, hỗ trợ cả về phía cung và phía cầu… Quốc hội thông qua, lại là Bộ trưởng chỉ đạo thiết kế và tham mưu Chính phủ nghị quyết về thực hiện Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội.

“Các đồng chí đã tham mưu rất trúng và đúng. Đó là Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội tập trung vào 4 trọng tâm: an sinh xã hội, y tế, hạ tầng và doanh nghiệp”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã nói thế.

Chính sách được thông qua, lại miệt mài theo dõi và quyết liệt đốc thúc triển khai. Mà đâu chỉ riêng Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội, còn rất nhiều việc phải làm, từ đốc thúc giải ngân vốn đầu tư công, đến tháo gỡ khó khăn cho sản xuất – kinh doanh, cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh…

Nhiệm vụ khó khăn và nặng nề, nhưng tất cả đều hoàn thành đúng hạn. Nhờ vậy, từng tháng, từng quý, tình hình kinh tế – xã hội dần phục hồi. Cả năm 2022, 13/15 chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội đạt và vượt mục tiêu đề ra, đặc biệt là tăng trưởng GDP ở mức cao, nên vỡ òa trong cảm xúc mừng vui.

Nhưng Bộ trưởng nói, mừng đấy, mà lo đấy, bởi các thách thức, khó khăn của năm 2023 là rất lớn. Kinh tế thế giới diễn biến nhanh và khó lường, đầy rủi ro và các yếu tố bất định. Trong nước, những khó khăn đã phát lộ ngay từ cuối năm trước. Doanh nghiệp gặp khó vì thiếu đơn hàng, dòng tiền cũng khó. Thu hút đầu tư nước ngoài dù điểm tích cực là giải ngân đạt mức cao, nhưng thu hút mới lại vẫn trong xu hướng suy giảm, có thể ảnh hưởng đến giải ngân và việc tạo thêm năng lực mới cho nền kinh tế trong những năm sắp tới… Giải ngân vốn đầu tư công vẫn chưa đạt kỳ vọng…

Trong khi đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo, năm 2023, thành tựu đạt được phải cao hơn năm 2022.

“Nhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, dũng cảm vượt qua chính mình, vì lợi ích chung của đất nước, của dân tộc”, Bộ trưởng đã nói thế với các cán bộ, nhân viên của toàn ngành Kế hoạch – Đầu tư và Thống kê.

Và hành trình kiến tạo hạnh phúc cho người dân

Đã là nhiệm kỳ thứ hai Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng được trao trọng trách Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Suốt chặng đường hơn 7 năm qua, ông luôn trăn trở với việc làm sao để hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng của đất nước. Vì khát vọng ấy, ông đã chọn con đường tiên phong đổi mới, ngay từ ngày mới nhậm chức và cho tới tận bây giờ, ngọn cờ đổi mới, ngọn lửa cải cách trong ông luôn bừng sáng.

Ông vẫn luôn nói với các cán bộ, nhân viên Bộ Kế hoạch và Đầu tư rằng, toàn ngành phải không ngừng đổi mới và cải cách, phải trang bị một hệ thống tư duy tổng hợp, mang tầm chiến lược, bao quát cả những vấn đề ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của đất nước; đồng thời, bắt kịp xu hướng vận động, phát triển mới của thế giới, để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, góp phần cùng cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân từng bước hiện thực hóa khát vọng tương lai xây dựng đất nước phồn vinh, thịnh vượng và hạnh phúc.

Lo cho không chỉ ngắn hạn, mà cả trung và dài hạn, nên năm 2022, có thể nói đã ghi dấu ấn quan trọng trong sự thay đổi về mặt tư duy và nhận thức của cán bộ toàn ngành. Công tác trọng tâm đã được chuyển từ phân bổ kế hoạch sang xây dựng cơ chế, thể chế, chính sách pháp luật; từ trạng thái thực hiện sang trạng thái tham mưu, kiến tạo sự phát triển…

Hiếm có năm nào mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại thực hiện việc tham mưu cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội các địa phương và vùng lãnh thổ nhiều đến như thế. Từ việc chủ trì xây dựng các nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển cho địa phương, như Cần Thơ, Khánh Hòa, hay Buôn Ma Thuột… đến việc tham mưu xây dựng các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển 6 vùng kinh tế, cũng như chủ trì xây dựng chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện các nghị quyết này…

“Tư duy mới – Tầm nhìn mới” là điều đã luôn được Bộ trưởng nhắc đến khi nói về việc triển khai các nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị.

Hơn một lần, Bộ trưởng nhấn mạnh, đã đến lúc chúng ta phải tự hoạch định con đường phát triển của riêng mình, đặt ra các mục tiêu lớn để nỗ lực phấn đấu và bứt tốc, để có thể tiến cùng và vượt lên trong hành trình đi tới tương lai thịnh vượng của đất nước.

Kinh tế năm 2023 còn khó khăn, phía trước còn nhiều thách thức, nhưng cũng có rất nhiều cơ hội đang được mở ra. Sau phục hồi, sẽ là cơ hội để nền kinh tế bứt tốc, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững trong tương lai. Các cơ chế, chính sách mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như cá nhân Bộ trưởng tham mưu, từ Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội, các cơ chế – chính sách để phát triển các vùng kinh tế, các đầu tàu kinh tế của cả nước, đặc biệt là Quy hoạch Tổng thể quốc gia… sẽ là “chìa khóa” để nền kinh tế đi tới phồn vinh và hạnh phúc.

Trong hành trình ấy, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn nói rằng, không được để ai bị bỏ lại phía sau. Bởi thế, trong bộn bề công việc, vẫn thấy ông rất chân tình và cởi mở tới thăm, động viên và bảo trợ cho các nhóm người yếu thế trong xã hội. Nhìn nụ cười hồn hậu và cái bắt tay ấm áp, thân tình của ông với những người khiếm thị, khiếm thính, với các “chiến binh” của Công ty Kym Việt, hay HTX Tâm Ngọc, Nhóm Thương Thương…, càng thấu hiểu “tâm và tầm” của Tư lệnh ngành Kế hoạch và Đầu tư. Khi chúng ta có tầm nhìn, tâm sáng và tấm lòng nhiệt huyết, chúng ta sẽ hết mình lo cho dân, cho nước…

Nhớ hôm Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Chương trình Tự hào Việt Nam, giữa sân Đoan Môn của Di tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long, vào đúng thời khắc thiêng liêng chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã kêu gọi cán bộ, nhân viên toàn ngành đồng lòng thống nhất tinh thần “Tự hào với lịch sử càng cao thì trách nhiệm với hiện tại và tương lai càng lớn”, và cùng nhau truyền tải thông điệp “Người dân là trọng tâm của phát triển, mọi chính sách phải hướng tới hạnh phúc người dân”. Ông nói, thông điệp ấy phải xuyên suốt trong mọi hoạt động tham mưu, hoạch định chính sách của ngành Kế hoạch – Đầu tư và Thống kê.

“Mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động toàn ngành hãy không ngừng truyền tải thông điệp mạnh mẽ về Trí Tuệ – Đạo Đức – Bản Lĩnh và Nghị Lực; luôn tu dưỡng, rèn luyện bản thân, kết hợp với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, nỗ lực hết mình để cùng lan tỏa ngọn lửa nhiệt huyết, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường, vì khát vọng phát triển, xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, sánh vai với cường quốc 5 châu như mong ước của Bác Hồ kính yêu, mọi người dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã nhấn mạnh như vậy.

Hành trình thịnh vượng của đất nước, hành trình hạnh phúc của người dân dường như đang được khởi nguồn từ những hạt mầm nỗ lực ngày hôm nay, bắt đầu từ mỗi con người của Bộ Kế hoạch và Đầu tư…

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng luôn nhấn mạnh rằng, giá trị cốt lõi và cũng là tài sản lớn nhất mà ngành Kế hoạch và Đầu tư đã có, đang có và sẽ có, là bản lĩnh, trí tuệ, là khát vọng vươn lên, cống hiến, để đồng hành cùng dân tộc, làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.

Tâm niệm ấy, khát vọng ấy của Bộ trưởng đang từng ngày, từng giờ được truyền tải tới mỗi cán bộ, nhân viên Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và toàn ngành.

]]>
Kinh tế quay lại quỹ đạo tăng trưởng, giai đoạn giảm điểm của VN-Index đang kết thúc https://doanhnhandautu.com/kinh-te-quay-lai-quy-dao-tang-truong-giai-doan-giam-diem-cua-vn-index-dang-ket-thuc/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:53 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6501 Đó là nhận định được VinaCapital đưa ra trong báo cáo “Hướng đến 2023”, vừa được công bố.]]>
Đó là nhận định được VinaCapital đưa ra trong báo cáo “Hướng đến 2023”, vừa được công bố.

Ông Michael Kokalari, CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng VinaCapital, vừa đưa ra những nhận định quan trọng về kinh tế Việt Nam.

Cụ thể, trong báo cáo “Hướng đến 2023”, ông Michael Kokalari bày tỏ kỳ vọng rằng, nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ trở lại thể hiện đúng với tiềm năng trong năm nay.

“Nền kinh tế đang quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng dài hạn khi giai đoạn bùng nổ sau Covid-19 đã kết thúc”, ông Michael Kokalari nhận định và nhấn mạnh rằng, chuyển động thị trường gần đây đã cho thấy giai đoạn giảm điểm của VN-Index đang kết thúc – giảm 33% trong năm 2022, bất chấp tốc độ tăng trưởng GDP nhanh nhất của Việt Nam trong 25 năm.

Kinh tế quay lại quỹ đạo tăng trưởng, giai đoạn giảm điểm của VN-Index đang kết thúc
Thị trường chứng khoán Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng 20% trong năm nay.

Theo đó, một trong những nhận định quan trọng của ông Michael Kokalari, đó là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ chậm lại, giảm từ mức 8% trong năm 2022 xuống còn 6% trong năm 2023.

Nguyên nhân là vì giai đoạn bùng nổ sau Covid của Việt Nam hiện đã kết thúc và nhu cầu về các sản phẩm “Made in Vietnam” ở Mỹ, EU… đang chậm lại đáng kể, cùng với sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu.

Tuy vậy, ở chiều ngược lại, Chuyên gia kinh tế trưởng của VinaCapital cho rằng, việc Trung Quốc mở cửa trở lại sẽ thúc đẩy kinh tế Việt Nam trong nửa cuối 2023 (số ca mắc Covid-19 ở Trung Quốc có khả năng đạt đỉnh trong vòng 1-2 tháng tới), bởi sự gia tăng khách du lịch nước ngoài tại Việt Nam.

Cùng với đó, kế hoạch đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Chính phủ Việt Nam tăng khoảng 50%, điều này sẽ tăng chi tiêu từ 4%/GDP vào năm 2022 lên 7%/GDP vào năm 2023, cũng sẽ hỗ trợ cho tăng trưởng của Việt Nam.

Theo VinaCapital, năm 2022, GDP của Việt Nam tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất trong 25 năm qua, được dẫn dắt bởi sự bùng nổ tiêu dùng hậu Covid-19, do người tiêu dùng Việt Nam tích cực mua sắm và khách du lịch nước ngoài bắt đầu quay trở lại Việt Nam.

Tuy nhiên, sự tăng trưởng này đã giảm dần vào cuối năm 2022. Ngược lại, lượng khách du lịch nước ngoài tăng trưởng đáng kể trong nửa cuối 2022 nhưng chỉ đạt khoảng 20% mức trước Covid-19.

Vì vậy, VinaCapital kỳ vọng, lượng khách du lịch sẽ tiếp tục gia tăng do sự mở cửa trở lại của Trung Quốc và sẽ đạt 50% mức trước Covid-19 vào năm 2023.

Trong khi đó, về thị trường chứng khoán, VinaCapital cho rằng, thị trường sẽ hồi phục mạnh mẽ vì các yếu tố trong và ngoài nước tác động lên thị trường năm ngoái đã được giải quyết.

“VinaCapital tin rằng, giai đoạn giảm điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đã kết thúc và nên chú ý rằng có sự đồng thuận về kỳ vọng VN-Index sẽ tăng hơn 20%”, VinaCapital bày tỏ quan điểm và cho rằng, lý do cho sự phục hồi về cơ bản này là do sự cải thiện ở cả yếu tố trong nước và quốc tế, vốn đã tạo áp lực lên thị trường trong năm ngoái.

Đặc biệt, áp lực lạm phát toàn cầu hiện đang giảm bớt. Điều đó có nghĩa là việc tăng lãi suất mạnh mẽ của các ngân hàng trung ương làm suy yếu các thị trường chứng khoán phát triển lẫn mới nổi vào năm ngoái có thể sẽ sớm kết thúc.

“VinaCapital kỳ vọng Chính phủ sẽ thực hiện các bước để giảm bớt các vấn đề thanh khoản hiện đang tác động đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam. Điều này sẽ dẫn đến việc nối lại khả năng tái cấp vốn cho các khoản nợ đáo hạn của các công ty Việt Nam”, Chuyên gia kinh tế trưởng của VinaCapital bày tỏ.

Theo quan điểm của VinaCapital, việc niềm tin trở lại thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ là một quá trình kéo dài nhưng định giá hấp dẫn và triển vọng tăng trưởng lợi nhuận vững chắc của thị trường có lẽ giải thích tại sao các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu Việt Nam trị giá 1,1 tỷ USD trong hai tháng cuối năm 2022.

“Họ cũng là những người mua ròng của thị trường chứng khoán Việt Nam cho cả năm 2022, lần đầu tiên kể từ năm 2019”, vị chuyên gia của VinaCapital cho biết.

Ở góc độ khác, ông Michael Kokalari cho rằng, sự duy trì các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn bao gồm dòng vốn FDI vẫn tiếp tục chảy vào Việt Nam, do sự gia tăng căng thẳng thương mại Mỹ – Trung vào năm ngoái.

Cùng với đó, quá trình đô thị hóa và nhân khẩu học sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng liên tục của tầng lớp trung lưu mới nổi và tiêu dùng nội địa Việt Nam. 

Bên cạnh đó, VinaCapital kỳ vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam sẽ duy trì ổn định trong năm nay. Theo VinaCapital, VND đã mất giá 3% trong năm 2022, trong khi các các đồng tiền trong khu vực thị trường mới nổi mất giá 7%.

“Chúng tôi cho rằng giá trị VND tăng 2-3% trong năm nay. Lạm phát CPI của Việt Nam trung bình là 3% trong năm 2022 thấp hơn nhiều so với các thị trường cận biên/mới nổi trên thế giới. VinaCapital dự báo chỉ số này của Việt Nam sẽ tăng lên 4% trong năm 2023, phần lớn là do Trung Quốc mở cửa trở lại có khả năng gây áp lực lên giá thực phẩm và năng lượng tại Việt Nam”, Chuyên gia kinh tế trưởng của VinaCapital dự báo.

]]>
Áp lực điều hành kinh tế 2023 https://doanhnhandautu.com/ap-luc-dieu-hanh-kinh-te-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:27 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6830 Diễn biến của nền kinh tế cho thấy, điều hành vĩ mô sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức trong năm 2023.]]>
Diễn biến của nền kinh tế cho thấy, điều hành vĩ mô sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức trong năm 2023.
Áp lực điều hành kinh tế 2023
Lạm phát tháng đầu năm chịu tác động cộng hưởng bởi nhiều yếu tố, như quy luật tiêu dùng, giá cả tăng cao vào dịp Tết…

Áp lực “thúc tăng trưởng và kiểm soát lạm phát”

Dù xu hướng phục hồi của nền kinh tế vẫn tiếp tục, song các chỉ số kinh tế vĩ mô tháng 1/2023 và những diễn biến gần đây của nền kinh tế cho thấy, khó khăn, thách thức ở phía trước là rất lớn.

Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 1/2023, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã nhấn mạnh việc “điều hành vĩ mô tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức”. Trong đó, lớn nhất là áp lực điều hành tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát.

Trên thực tế, đây không chỉ là áp lực riêng của nền kinh tế Việt Nam, mà là của kinh tế toàn cầu. Thậm chí, kinh tế toàn cầu đã phải đối mặt với vòng xoáy lạm phát và nguy cơ suy thoái kinh tế từ năm ngoái. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ấn tượng 8,02% và kiểm soát lạm phát ở mức 3,15% trong năm 2022.

Tuy nhiên, bước sang năm 2023, câu chuyện đã khác. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lạm phát cơ bản tháng 1/2023 đã tăng 5,21% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn lạm phát chung (4,89%). Đây là mức tăng cao nhất cùng kỳ tháng 1 từ năm 2016 đến nay.

Mặc dù vậy, báo cáo Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đây là điều đã được dự báo trước, khi lạm phát và giá cả tháng đầu năm chịu tác động cộng hưởng bởi nhiều yếu tố, như quy luật tiêu dùng, giá cả tăng cao vào dịp Tết; các chính sách hỗ trợ thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, thuế giá trị gia tăng, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí… hết hiệu lực từ đầu năm 2023; xu hướng lạm phát tăng từ nửa cuối năm 2022 đến nay; chi phí sản xuất tăng, bao gồm cả lãi vay, tiền lương, giá nguyên vật liệu đầu vào trong nước và nhập khẩu…

“Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lạm phát hiện nay không xuất phát từ thị trường tài chính, tiền tệ như giai đoạn năm 1997 và 2008-2013, mà do gián đoạn chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, thiếu hụt nguồn cung toàn cầu”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói và cho biết, đây là vấn đề chưa từng có tiền lệ, phát sinh do kinh tế thế giới đồng thời bị tác động bởi đại dịch Covid-19, xung đột Nga – Ukraine, cộng hưởng với chính sách tiền tệ nới lỏng mà nhiều quốc gia theo đuổi trước đây…

Cũng chính các yếu tố trên đã và đang gây áp lực tới điều hành tăng trưởng của Việt Nam. Tháng 1/2023, do nghỉ Tết, nên số ngày làm việc chỉ khoảng 20 ngày, bằng 2/3 so với các tháng khác, cùng với tác động kép của tình hình thế giới, trong nước, nên hoạt động sản xuất – kinh doanh, nhất là sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu… gặp nhiều khó khăn.

Không chỉ sản xuất công nghiệp, mà cả xuất khẩu đều sụt giảm so với cùng kỳ. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 1/2023 chỉ bằng 92% so với cùng kỳ năm trước. Mức giảm này cao hơn tháng Tết các năm 2018-2022. Thậm chí, nhiều ngành công nghiệp trọng điểm giảm so với cùng kỳ năm trước và giảm ở nhiều địa phương có quy mô công nghiệp lớn như TP.HCM, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Đồng Nai…

Trong khi đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa tháng 1/2023 đều giảm so với cùng kỳ năm trước, lần lượt giảm 25%, 21,3% và 28,9%. Không những thế, xuất khẩu sang các thị trường chủ lực đều giảm mạnh, như Mỹ (giảm 24,5%), EU (giảm 32,7%), Hàn Quốc (giảm 14,9%), ASEAN (giảm 13,4%)… “Đây là mức giảm khá lớn so các tháng Tết cùng kỳ giai đoạn 2018-2022”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa nhận.

Dù mới chỉ là những chỉ số của tháng đầu năm, song điều này cũng cho thấy một năm 2023 vô cùng khó khăn, với áp lực lạm phát tăng cao hơn, trong khi tiềm năng tăng trưởng lại thấp hơn so với năm 2022.

“Hóa giải” áp lực

Áp lực điều hành kinh tế 2023 là rất lớn. Làm sao để “hóa giải” áp lực này là điều không đơn giản.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để ứng phó với tình trạng lạm phát cao, nhiều nền kinh tế lớn tăng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ, làm thu hẹp phía cầu của nền kinh tế để tận dụng thời gian, củng cố lại các chuỗi cung ứng và sản xuất. Tuy nhiên, mặt trái là làm suy giảm hoạt động đầu tư, hạn chế việc cải thiện phía cung của nền kinh tế. Từ đó, tạo thành nguy cơ “đình lạm” kéo dài, tức là lạm phát cao, tăng trưởng thấp tại các quốc gia.

Vì vậy, ở Việt Nam, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, trọng tâm chính sách không chỉ tập trung vào chính sách tiền tệ, mà phải đồng thời cả chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, trong đó chính sách tài khóa phải đóng vai trò quan trọng và quyết định. “Tình hình doanh nghiệp, sản xuất công nghiệp khó khăn, thiếu đơn hàng, cắt giảm lao động, lãi suất tăng cao, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn thời gian qua sẽ tác động đến sản xuất – kinh doanh, tăng trưởng kinh tế năm 2023. Điều này đòi hỏi phải kịp thời nghiên cứu, bổ sung ngay các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hoạt động sản xuất – kinh doanh”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói.

Có chung nhận định, trong một báo cáo vừa được công bố, Ngân hàng HSBC cho rằng, các dữ liệu kinh tế tháng 1/2023 tiếp tục cho thấy những rủi ro suy giảm tăng trưởng và lạm phát cao. Về tăng trưởng, theo HSBC, dù các chỉ số thương mại của Việt Nam tiếp tục xấu đi, một phần là do hiệu ứng cơ sở dịp Tết, nhưng triển vọng FDI tươi sáng và nhu cầu trong nước vẫn mạnh mẽ có thể bù đắp một phần cho một số suy yếu trong lĩnh vực bên ngoài.

“Bất chấp tình hình thương mại đang chậm lại, vẫn có những yếu tố giữ cho nền kinh tế Việt Nam vững vàng”, các chuyên gia của HSBC nhận định và cho rằng, du lịch sẽ là một ngành có ý nghĩa “then chốt” mang lại tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam trong năm 2023.

Theo HSBC, dù sau khi mở cửa trở lại, du lịch quốc tế của Việt Nam chưa mấy sôi động, song vẫn có những lý do để kỳ vọng một sự phục hồi mạnh mẽ hơn. Một trong số đó chính là sự mở cửa trở lại của Trung Quốc. Các chuyên gia của HSBC dự đoán, Việt Nam có thể đạt được tỷ lệ khách du lịch Trung Quốc quay lại từ 50-80%, tương ứng với 3-4,5 triệu lượt khách trong năm 2023.

Sự mở cửa trở lại của Trung Quốc cũng là lý do khiến các chuyên gia của VinaCapital cho rằng, sẽ giúp thúc đẩy kinh tế Việt Nam trong nửa cuối năm 2023. Sự gia tăng khách du lịch nước ngoài là một điểm đáng chú ý. “Khách du lịch Trung Quốc trước đây chiếm 1/3 tổng số khách du lịch của Việt Nam, nếu phục hồi hoàn toàn vào nửa cuối năm 2023, sẽ tương đương với lượng khách du lịch tăng thêm khoảng 20% vào năm 2023”, ông Michael Kokalari  CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng của VinaCapital lý giải.

Theo phân tích của ông Michael Kokalari, du lịch nước ngoài trước đây đóng góp khoảng 10% GDP của Việt Nam. Vì vậy, ước tính, việc một phần lượng khách du lịch nước ngoài trở lại đã đóng góp khoảng 2% vào tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm ngoái. “Sự tăng trưởng liên tục của lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam có thể sẽ thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam hơn 2% trong năm nay. Điều này sẽ bù đắp nhiều hơn cho sự sụt giảm trong lĩnh vực sản xuất”, ông Michael Kokalari dự báo.

Tất nhiên, cùng với đó, giải ngân đầu tư công tiếp tục được coi là yếu tố quan trọng giúp “hóa giải” áp lực điều hành tăng trưởng kinh tế trong năm nay. Không chỉ VinaCapital, mà các định chế nước ngoài nói chung đều có nhận định như vậy. Chính phủ Việt Nam cũng xác định giải ngân đầu tư công là giải pháp hàng đầu để thúc tăng trưởng kinh tế.

Trong Báo cáo Hướng đến năm 2023 do VinaCapital vừa công bố, ông Michael Kokalari, CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng của đơn vị này cho rằng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ chậm lại, giảm từ mức 8% trong năm 2022 xuống còn 6% trong năm 2023.

“Nguyên nhân là giai đoạn bùng nổ sau Covid của Việt Nam đã kết thúc và nhu cầu về các sản phẩm ‘Made in Vietnam’ ở Mỹ, EU… đang chậm lại đáng kể, cùng với sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu”, ông Michael Kokalari lý giải.

]]>