# kiểm soát lạm phát – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:38:16 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # kiểm soát lạm phát – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Kinh tế 2023 và áp lực lạm phát https://doanhnhandautu.com/kinh-te-2023-va-ap-luc-lam-phat/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:38 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2273 Dù nền kinh tế đã đạt thắng lợi kép trong năm 2022, khi tăng trưởng GDP đạt ở mức cao (8,02%), lạm phát thấp (3,15%), nhưng rủi ro và áp lực lạm phát trong năm 2023 vẫn rất lớn, đòi hỏi phải thận trọng trong điều hành.]]>
Dù nền kinh tế đã đạt thắng lợi kép trong năm 2022, khi tăng trưởng GDP đạt ở mức cao (8,02%), lạm phát thấp (3,15%), nhưng rủi ro và áp lực lạm phát trong năm 2023 vẫn rất lớn, đòi hỏi phải thận trọng trong điều hành.
Kinh tế 2023 và áp lực lạm phát
Caption ảnh

Trên thực tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát luôn là mục tiêu ưu tiên trong điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong nhiều năm gần đây. Tuy vậy, với một nền kinh tế mở như Việt Nam, nguy cơ “nhập khẩu” lạm phát là rất lớn, áp lực lạm phát luôn chực chờ, thì càng cần phải thận trọng hơn trong điều hành.

Chính phủ Việt Nam, có thể nói, đã rất thành công trong điều hành giá cả thị trường để kiểm soát lạm phát trong năm 2022. Đây chính là năm mà lạm phát “càn quét” kinh tế toàn cầu, đặc biệt ở khu vực châu Âu và Mỹ.

Một vài ví dụ cụ thể: lạm phát của khu vực đồng Euro tháng 11/2022 tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2021; lạm phát của Mỹ tăng 7,1% và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ. Tại châu Á, lạm phát tháng 11/2022 của Thái Lan tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2021.

Tỷ lệ lạm phát của Hàn Quốc tăng 5%; Indonesia tăng 5,4%; Trung Quốc tăng 1,6%; Nhật Bản tăng 3,8%… Cao hơn năm 2021, thậm chí là kỷ lục trong vài chục năm qua là điều được các chuyên gia nhắc đến rất nhiều khi nói về lạm phát trên toàn cầu năm 2022.

Nhưng ngược dòng thế giới, Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát ở mức 3,15%, dù trong suốt cả năm, nền kinh tế luôn phấp phỏng lo lạm phát cao quay trở lại. Đó là một thành tựu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được nhiều định chế tài chính nước ngoài đánh giá cao.

Tuy vậy, khi năm 2023 chỉ còn cách năm 2022 một bước chân, thì nỗi ám ảnh lạm phát đã quay trở lại.

Dù về số liệu thống kê, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) bình quân chỉ tăng 3,15%, nhưng chính những người tiêu dùng mới thấy “hơi nóng” của lạm phát lớn thế nào, khi giá cả hàng hóa ngoài chợ, trong siêu thị không ngừng tăng.

Doanh nghiệp càng thấy “nóng” hơn, thậm chí là “nóng rát”, khi giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng nhanh trong năm vừa qua. Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố, Chỉ số Giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất trong năm 2022 tăng 6,79% so với năm trước. Trong đó, chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 9,88%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,53%; dùng cho xây dựng tăng 6,96%…

Thậm chí, nếu chỉ nhìn vào số liệu CPI, cũng có những điều cần phải lo. Bởi lẽ, dù tính bình quân, CPI năm 2022 của Việt Nam chỉ tăng 3,15%, nhưng so với tháng 12 năm trước, CPI vẫn tăng 4,55% – một mức khá cao. Trong đó, riêng CPI bình quân quý IV/2022 tăng 4,41% so với cùng kỳ năm trước.

Và dù Việt Nam thuộc nhóm các nước có mức lạm phát thấp so với mặt bằng chung, khi CPI tháng 12/2022 tăng 4,55% so với cùng kỳ năm trước đi chăng nữa, thì cũng vẫn cao hơn lạm phát của Nhật Bản và Trung Quốc.

Xu hướng tăng giá này cho thấy, áp lực lạm phát trong năm 2023 là hiện hữu. Hơn thế, còn rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường, lạm phát trong năm tới. Đầu tiên là việc giá cả nhiều mặt hàng đang tăng cao, có thể sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn, nhất là khi hai kỳ nghỉ Tết Dương lịch và Âm lịch cận kề.

Không những thế, điều quan trọng là bước sang năm 2023, một số biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, như giảm thuế giá trị gia tăng, giảm một số loại phí, lệ phí, giảm thuế môi trường, xăng dầu, các chính sách hỗ trợ người lao động… sẽ kết thúc. Nếu không tiếp tục được gia hạn, sẽ tác động ngay tới CPI.

Chưa kể, việc tăng lương, rồi điều chỉnh giá một số sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước quản lý, như giá điện, học phí…, vốn đang được trì hoãn, nếu được thực thi trong năm 2023 cũng sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng CPI của cả nước.

Dù áp lực lạm phát toàn cầu năm 2023 được dự báo không căng thẳng như năm 2022, nhưng ở trong nước, rất nhiều yếu tố có thể tác động đến lạm phát. Trong đó, bao gồm cả việc gói đầu tư công lên tới hơn 700.000 tỷ đồng sẽ được đưa vào nền kinh tế trong năm tới. Việc một ngân khoản lớn của Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội phải hoàn tất giải ngân trong năm 2023 cũng sẽ đổ một lượng tiền lớn vào nền kinh tế.

Không phải ngẫu nhiên mà khi quyết nghị các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội 2023, Quốc hội đã bấm nút thông qua mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức 4,5%, thay vì dưới 4% như năm 2022. Chỉ điều đó cũng cho thấy, nỗi lo lạm phát lớn chừng nào.

Nếu không thận trọng trong điều hành, “bóng ma” lạm phát sẽ ám ảnh nền kinh tế.

]]>
Tết Quý Mão không lo lạm phát https://doanhnhandautu.com/tet-quy-mao-khong-lo-lam-phat/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:29 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3485 Thông thường, tháng diễn ra Tết Nguyên đán, mặt bằng giá cả cao hơn nhiều những tháng còn lại trong năm, đặc biệt với các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. ]]>
Thông thường, tháng diễn ra Tết Nguyên đán, mặt bằng giá cả cao hơn nhiều những tháng còn lại trong năm, đặc biệt với các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.

Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế, TS. Vũ Vinh Phú (nguyên Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội), Tết Quý Mão không lo lạm phát, vì hàng hóa rất dồi dào.

Tết Quý Mão không lo lạm phát
TS. Vũ Vinh Phú (nguyên Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội)

Chỉ còn ít ngày nữa, người dân cả nước bắt đầu kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, nhưng quan sát thị trường năm nay, không khí mua sắm dường như không sôi động bằng mọi năm. Ông có nhận thấy thế không?

Người tiêu dùng Việt Nam có thói quen “đói quanh năm, no ba ngày Tết”, nên chắc chắn không hạn chế chi tiêu cho ngày Tết. Tuy nhiên, năm nay, hàng hóa rất dồi dào, chủng loại đa dạng, mẫu mã phong phú, giá cả có tăng so với ngày thường, nhưng không nhiều, nên có cảm giác hoạt động mua sắm không sôi nổi như mọi năm.

Hơn nữa, thói quen mua sắm ngày Tết đang dần có sự thay đổi. Thay vì đổ xô đến chợ dân sinh, siêu thị, cửa hàng, trung tâm thương mại vào những ngày sát Tết Nguyên đán như trước đây, bây giờ, người ta sắm Tết dần từ trước, nên ít thấy cảnh người người “tay xách, nách mang”, túi lớn, bao nhỏ khi đi sắm Tết, nên có cảm giác người dân hạn chế chi tiêu.

Như vậy sẽ không còn phải lo mặt bằng giá cả tăng vào dịp Tết, thư ông?

Ngoài yếu tố khách quan hỗ trợ việc kiểm soát giá cả hàng hóa vào dịp Tết, để bảo đảm cho người dân đón Tết Nguyên đán vui tươi, lành mạnh, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 22/CT-TTg (ngày 23/12/2022) yêu cầu ngành công thương theo dõi sát tình hình thị trường, chủ động chỉ đạo các địa phương có phương án chuẩn bị nguồn cung hàng hóa thiết yếu, các mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng tăng cao, bảo đảm chất lượng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu của người dân, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, gián đoạn nguồn hàng gây tăng giá đột biến; chủ động xử lý các biến động bất thường của thị trường.

Hiện tại, nhiều địa phương, đặc biệt là tại các trung tâm kinh tế – tài chính, đã triển khai nhiều chương trình bình ổn thị trường, kết nối cung – cầu, đưa hàng Việt về nông thôn, về khu công nghiệp, nguồn cung dồi dào, cầu tăng không quá đột biến, do dần thay đổi thói quen mua sắm, nên không lo giá cả tăng trong dịp Tết.

Không phải chỉ có Việt Nam, mà nền kinh tế nào cũng lo lạm phát quay trở lại, bởi lạm phát sẽ làm xói mòn thành quả tăng trưởng kinh tế cũng như mức sống của người dân. Vì vậy, việc kiểm soát lạm phát không được lơ là cả trước, trong và sau Tết, tránh để tình trạng giá cả tăng khi qua Tết, bởi ra Giêng, đa phần tích lũy của gia đình có thu nhập từ mức trung bình trở xuống đã chi tiêu hết, nếu giá cả tăng, đời sống người dân sẽ gặp khó khăn.

Theo ông, còn nhân tố nào khiến mặt bằng giá cả khó tăng mạnh trong dịp Tết Quý Mão?

Một trong những mặt hàng quan trọng nhất, được tiêu dùng nhiều nhất và không thể sử dụng mặt hàng khác thay thế trong mỗi dịp Tết cổ truyền là thịt lợn. Năm 2022, giá thịt lợn bình quân giảm 10,68% so với năm trước, góp phần kiểm soát được Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) ở mức 3,15%. Nếu mặt hàng này không giảm, thì CPI năm nay ít nhất cũng lên 3,51%. Trong tháng 12/2022, mặt hàng này tiếp tục giảm 1,59% so với tháng trước đó và trong những ngày đầu năm 2023, giá thịt lợn vẫn xu hướng giảm xuống còn khoảng 50.000 đồng/kg thịt hơi.

Giá thịt lợn giảm, cộng với các loại hàng hóa thiết yếu khác rất dồi dào là nhân tố rất quan trọng khiến mặt bằng giá cả Tết Quý Mão không tăng mạnh như mọi năm. Tuy nhiên, giá đầu vào chăn nuôi nói chung, nuôi lợn nói riêng năm 2022 đã tăng khá mạnh và giữ ở mức cao, với giá thịt lợn hơi 50.000 đồng/kg sẽ khiến người chăn nuôi bị thua lỗ, giỏi lắm là hòa vốn, nên sẽ lại tái diễn tình trạng “treo chuồng”, giảm đàn. Nếu việc này diễn ra phổ biến, thì ra Xuân sẽ dẫn tới thiếu nguồn cung thịt lợn, trở thành mối lo tiềm tàng trong việc kiểm soát lạm phát.

Tháng Tết Nguyên đán được ví như “tháng củ mật”, rất nhạy cảm. Theo ông, cần phải làm gì để người dân đón Tết vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm?

Nhu cầu tiêu dùng tháng Tết cao hơn rất nhiều so với các tháng còn lại trong năm chính là thời cơ cho hoạt động gian lận, buôn lậu, hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng hoành hành. Vì vậy, ngay từ trung tuần tháng 11/2022, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 19-/CT-TW về việc tổ chức Tết Quý Mão, bên cạnh yêu cầu các cấp, các ngành tăng cường công tác dự báo và quản lý thị trường, ổn định giá cả, bảo đảm cân đối cung – cầu hàng hoá, dịch vụ, bảo đảm xăng dầu, các mặt hàng thiết yếu, phải tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, bảo đảm tốt công tác an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là dịch Covid-19 vì Trung Quốc đã mở cửa lại nền kinh tế, rất nhiều người dân Trung Quốc sẽ đi du lịch Việt Nam.

Ban Bí thư cũng yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước phải kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, đầu cơ, tích trữ, đẩy giá hàng hoá tăng cao bất thường để thu lợi bất chính.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã kịp thời chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng; tập trung kiểm tra, tuần tra chặt chẽ tại các tuyến, địa bàn trọng điểm vì hàng nhập lậu, hàng giả thường có xu hướng gia tăng trong dịp Tết như chất nổ, pháo nổ, vũ khí, hàng hóa vi phạm môi trường, thuốc lá, rượu bia, gia cầm, thực phẩm…

Như ông nói, kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ phải làm quanh năm, vậy phải làm cách nào?

Ở các nước trên thế giới, hàng hóa trong siêu thị bao giờ cũng rẻ hơn ở chợ dân sinh, cửa hàng bán lẻ, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại. Đây là điều rất lạ!

Hàng hóa trong siêu thị đắt vì phải qua nhiều cửa, nhiều khâu trung gian, cứ qua mỗi cửa, mỗi khâu trung gian, giá cả lại bị đội lên, nên khi đến tay người tiêu dùng, giá cả bị đắt lên rất nhiều, mà người sản xuất không được hưởng lợi, còn người tiêu dùng bị “móc túi”. Thu nhập của người dân càng ngày càng được cải thiện, thói quen mua sắm đã và đang thay đổi mạnh mẽ, thay vì “ra chợ”, người ta vào siêu thị, đặc biệt là người dân đô thị và giới trẻ. Vì vậy, phải cắt giảm tối đa khâu trung gian, làm sao siêu thị phải là đầu tàu dẫn dắt thị trường, chứ không phải ngược lại, thì việc kiểm soát mới có hiệu quả.

Hàng hóa sản xuất trong nước, từ hàng tiêu dùng, hàng điện máy cao cấp, đồ gia dụng đến hàng nông sản rất dồi dào, phong phú, đa dạng và giá cả rất phải chăng, nhưng siêu thị lại thích bán hàng nhập khẩu vì được chiết khấu cao, lợi nhuận lớn hơn so với hàng sản xuất trong nước. Chúng ta đang thực hiện phong trào “Người Việt ưu tiên sử dụng hàng Việt”, vậy cần phải có quy định siêu thị bắt buộc bán hàng sản xuất trong nước với tỷ lệ tối thiểu là bao nhiêu thì người tiêu dùng mới có cơ hội mua hàng giá rẻ hơn hàng nhập khẩu, đồng thời tạo động lực thúc đẩy sản xuất trong nước.

]]>
Cung tiền sẽ tăng trở lại https://doanhnhandautu.com/cung-tien-se-tang-tro-lai/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:29 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3492 Nếu như các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế được tháo gỡ, đặc biệt là đầu tư công được đẩy mạnh, thì niềm tin của các nhà đầu tư và doanh nghiệp được khôi phục trở lại, dẫn tới lượng cung tiền sẽ nhiều hơn trong năm nay.]]>
Nếu như các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế được tháo gỡ, đặc biệt là đầu tư công được đẩy mạnh, thì niềm tin của các nhà đầu tư và doanh nghiệp được khôi phục trở lại, dẫn tới lượng cung tiền sẽ nhiều hơn trong năm nay.
Cung tiền sẽ tăng trở lại

Tăng chậm trong năm qua

Theo Công ty Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (cung tiền M2) trong cả năm 2022 ước chỉ đạt 6 – 7%, so với mức bình quân 14%/năm cho giai đoạn 2012- 2021.

Theo báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV/2022 do Tổng cục Thống kê vừa công bố, tổng phương tiện thanh toán tính đến ngày 21/12/2022 tăng 3,85% so với cuối năm 2021. Con số trên thấp hơn nhiều mức tăng trưởng cùng thời điểm năm 2021 (8,31%). Tuy nhiên, cung tiền đã cải thiện đáng kể so với cuối quý III/2022.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính – ngân hàng cho biết, cung tiền trong năm 2022 tăng trưởng thấp bởi nhiều lý do.

Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước thận trọng trong việc kiểm soát lạm phát, có lúc Ngân hàng Nhà nước bán ngoại tệ, sau đó lại hút tiền về. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các kênh dẫn vốn khác bị tắc, nên doanh nghiệp bị thiếu vốn và do lạm phát toàn cầu, chi phí đầu vào tăng nhanh cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn để bù đắp phần tăng thêm. Trong khi đó, hạn mức tăng trưởng tín dụng của ngân hàng chỉ ở mức 14 – 15%, những kênh dẫn vốn khác bị ách tắc.

Đáng chú ý, giải ngân đầu tư công còn chậm, dẫn tới việc ách tắc vốn. Doanh nghiệp nợ đọng lẫn nhau khá nhiều, nhất là trong lĩnh vực xây dựng và thi công xây lắp.

Thêm vào đó, vòng quay tiền trong năm vừa qua bị chậm lại, do tồn kho bất động sản và các lĩnh vực khác khiến tiền bị đọng lại. Đồng thời, nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp bị mất niềm tin, nên họ lưỡng lự và có xu hướng găm tiền.

Tình hình sẽ cải thiện trong năm nay

Theo TS. Cấn Văn Lực, năm 2023, nếu như các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế được tháo gỡ, đặc biệt là đầu tư công được đẩy mạnh, thì niềm tin của các nhà đầu tư và doanh nghiệp được khôi phục trở lại, dẫn đến vòng quay tiền nhanh hơn và lượng cung tiền sẽ nhiều hơn. Người dân cũng gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.

Tình hình sẽ cải thiện trong năm nayKBSV dự báo tăng trưởng cung tiền sẽ hồi phục dựa trên nền cơ sở thấp của năm 2022, song sẽ chịu những tác động trái chiều.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, huy động vốn đến cuối tháng 12/2022 tăng khoảng 6%. Mức huy động cao hơn những tháng cuối năm cho thấy, dòng tiền gửi tiết kiệm đã quay trở lại hệ thống. Sau khi lãi suất huy động tăng mạnh, tiền gửi tại hệ thống ngân hàng cũng có diễn biến tích cực. Tuy nhiên, mức tăng trưởng 6% của huy động vốn cả năm 2022 vẫn thấp hơn nhiều so với những năm trước.

Năm 2023, KBSV dự báo tăng trưởng cung tiền sẽ hồi phục dựa trên nền cơ sở thấp của năm 2022, song sẽ chịu những tác động trái chiều.

Trong đó, tác động tích cực là Ngân hàng Nhà nước sẽ có dư địa để nới lỏng chính sách hơn trong năm 2023 khi áp lực tỷ giá và lạm phát được dự báo bớt căng thẳng, các đứt gãy chuỗi cung ứng dần được cải thiện và nhu cầu tiêu thụ toàn cầu sụt giảm giúp giá hàng hoá hạ nhiệt, trong khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được dự báo sẽ sớm kết thúc chu kỳ tăng lãi suất vào cuối quý I/2023.

Các chuyên gia cho rằng, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện lại nghiệp vụ mua USD, trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ tốt đến từ thặng dư thương mại, kiều hối và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vay nợ ròng nước ngoài, qua đó giúp tăng dự trữ ngoại hối và hỗ trợ thanh khoản hệ thống, kéo giảm mặt bằng lãi suất huy động cũng như cải thiện tăng trưởng cung tiền. Tỷ lệ thực hiện giải ngân vốn đầu tư công được dự báo đạt trên 80% kế hoạch, so với mức 75% của năm 2022, nên hỗ trợ thanh khoản nền kinh tế.

Ngược lại, tác động tiêu cực đến cung tiền có thể kể đến như nhu cầu vay vốn mới của các doanh nghiệp và hộ gia đình được dự báo suy giảm do mặt bằng lãi suất ở mức cao, trong khi điều kiện kinh doanh dự báo kém thuận lợi hơn trong năm 2023. Thanh khoản hệ thống dù được dự báo bớt căng thẳng, nhưng khó có thể sớm quay trở về mức ổn định. Rủi ro liên quan đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng đáng chú ý, khi áp lực đáo hạn vào năm 2023 là rất lớn, nên một lượng tín dụng đáng kể sẽ được sử dụng để phục vụ mục đích tất toán trái phiếu doanh nghiệp, khiến nguồn cung tín dụng thực tế bị thu hẹp…

Ông Trần Ngọc Báu, Tổng giám đốc WiGroup cho rằng, năm 2023 sẽ là năm bắt đầu chu kỳ thanh khoản mở rộng. Theo đó, mọi thứ dễ thở hơn, cũng có thể gọi là ánh sáng cuối đường hầm khi khó khăn về tiền đi qua. Bên cạnh đó, tín dụng năm 2023 được dự báo tăng chậm hơn năm 2022, trong khi huy động vốn được kỳ vọng tích cực hơn và tăng trưởng cung tiền sẽ phục hồi nhờ đầu tư công cải thiện.

]]>
CPI tháng 1/2023 cao, nhưng không lo ngại https://doanhnhandautu.com/cpi-thang-1-2023-cao-nhung-khong-lo-ngai/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:47 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5883 So với tháng trước và cùng kỳ năm trước, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2023 tăng cao nhất từ trước đến nay (ngoại trừ năm 2020).]]>
So với tháng trước và cùng kỳ năm trước, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2023 tăng cao nhất từ trước đến nay (ngoại trừ năm 2020).

Song theo nhận định của chuyên gia kinh tế, PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính), CPI năm nay chỉ tăng 3,3 – 3,7%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng khoảng 4,5% mà Quốc hội đặt ra.

CPI tháng 1/2023 cao, nhưng không lo ngại
PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính)

Ngay tháng đầu năm, CPI đã tăng tới 4,89% so với cùng kỳ năm 2022. Với tốc độ tăng cao như tháng 1 vừa qua, thì năm nay, liệu CPI có cao hơn con số 4,5% không, thưa ông?

Tháng 1/2023, CPI tăng tới 4,89% so với cùng kỳ năm 2022 và tăng 0,52% so với tháng trước, đúng là cao nhất trong nhiều năm trở lại đây (ngoại trừ năm 2020), nhưng hoàn toàn không lo ngại.

Bởi năm nay, Tết Nguyên đán rơi trọn vẹn vào tháng 1 – tháng cầu tiêu dùng tăng đột biến và theo quy luật, trong tháng Tết Nguyên đán bao giờ mặt bằng giá cả cũng tăng cao nhất so với các tháng còn lại trong năm.

Điều đặc biệt nữa là sau 3 năm liên tiếp trong dịp Tết cổ truyền, người dân bị hạn chế đi lại do đại dịch Covid-19, Tết Quý Mão năm nay, mọi hoạt động vui xuân – đón Tết đã trở lại trạng thái bình thường, nên nhu cầu mua sắm, đi lại của người dân tăng rất mạnh so với thông thường.

Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố, chỉ riêng tháng Tết Quý Mão, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 544.800 tỷ đồng, tăng 5,2% so với tháng 12/2022 và tăng tới 20% so với cùng kỳ năm 2022. Nhu cầu tăng đột biến, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cũng là lẽ đương nhiên.

Như vậy, mức tăng CPI tháng 1/2023 không phải là điều quá lo lắng, thưa ông? Theo ông, năm nay, CPI tăng khoảng bao nhiêu?

Tôi nghĩ rằng, nếu Chính phủ, các cấp, các ngành không chuẩn bị chu đáo thực phẩm, hàng hóa, dịch vụ, thì CPI tháng 1/2023 còn tăng cao hơn nữa. Bởi trong mức tăng 0,52% so với tháng trước Tết, riêng nhóm hàng thực phẩm đã đóng góp 0,2 điểm phần trăm, đi lại (giao thông) đóng góp 0,13 điểm phần trăm.

Đúng ra, kể từ ngày 1/1/2023, thuế bảo vệ môi trường sẽ trở về bình thường vì thời hạn giảm phí đã hết. Nhưng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và góp phần kiểm soát lạm phát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15. Theo đó, chỉ áp dụng thuế 2.000 đồng đối với mỗi lít xăng và 1.000 đồng đối với mỗi lít dầu, tức là chỉ bằng một nửa so với quy định.

Nhờ đó, chỉ số giá nhóm giao thông tháng 1/2023 tăng 1,39% so với tháng trước, làm CPI chung tăng 0,13 điểm phần trăm. Nếu tăng đúng theo quy định, tức là không tiếp tục giảm 50%, thì chỉ số giá nhóm giao thông và hoạt động sản xuất, kinh doanh còn tăng cao hơn nữa, khó mà giữ được CPI chỉ tăng ở mức 0,52% so với tháng trước.

Hơn nữa, tháng 1/2022, CPI rất thấp (tăng 0,19% so với tháng trước và tăng 1,94% so với cùng năm trước), đứng trên mẫu số thấp để tính toán, thì CPI tháng 1 năm nay cao cũng là bình thường, không có gì lo lắng.

Theo tôi, CPI năm 2023 chỉ tăng khoảng 3,3 – 3,7%, tức là thấp hơn rất nhiều mức tăng khoảng 4,5% theo yêu cầu của Quốc hội.

Cơ sở nào để ông đưa ra mức dự báo này?

Năm 2023, có nhiều yếu tố giúp kiểm soát lạm phát.

Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam đã thích ứng với tình hình mới, hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi mạnh mẽ, mặc dù trong quý IV/2022, một số doanh nghiệp bị thiếu hụt đơn hàng xuất khẩu phải co hẹp sản xuất, nhưng tình hình đã sáng trở lại, hàng loạt doanh nghiệp đang thu hút lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Sản xuất, kinh doanh tăng, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ dồi dào khiến lạm phát khó có thể tăng mạnh.

Thứ hai, sau thời gian tăng lãi suất, nhiều ngân hàng thương mại đã rời khỏi cuộc đua tăng lãi suất. Lãi suất giảm, giảm chi phí đầu vào, giảm giá thành sản xuất, thì sẽ giảm được giá bán sản phẩm.

Thứ ba, Bộ Tài chính đã quyết định tiếp tục thực hiện các chính sách giãn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí năm 2023 áp dụng như năm 2022, góp phần rất lớn làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.

Thứ tư, trong Nghị quyết số 01/2023/NQ-CP, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính sớm sửa Nghị định số 65/2022/NĐ-CP và Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ. Khi hoạt động huy động vốn trên thị trường trái phiếu được tháo gỡ sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thêm kênh huy động vốn mới, giảm phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng, giảm áp lực tăng lãi suất ngân hàng.

Và cuối cùng, như tôi đã nói, việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý tiếp tục giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu sẽ làm giảm giá bán lẻ xăng dầu cũng có đóng góp không nhỏ trong kiểm soát lạm phát.

Theo ông, những yếu tố khách quan sẽ tác động thế nào tới tình hình lạm phát của nước ta, thưa ông?

Rất mừng là tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế hàng đầu thế giới cũng là đối tác quan trọng nhất của Việt Nam trong quý IV/2022 không quá ảm đạm như dự báo trước đó. Khi các cường quốc kinh tế, đặc biệt là Mỹ và EU phục hồi, Việt Nam không chỉ tăng được xuất khẩu, mà còn gia tăng thặng dư thương mại, có đủ nguồn ngoại tệ để kiểm soát tỷ giá, giảm áp lực lên lạm phát.

Những ngày gần đây, đồng loạt các ngân hàng trung ương trên thế giới đã phát tín hiệu giảm đà tăng và đi đến chấm dứt tăng lãi suất để hỗ trợ sản xuất vì lạm phát tại các nền kinh tế này đang giảm dần. Đây là cơ hội để Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay.

Nếu trước đây, cuộc xung đột tại Ukraine là ẩn số với giới bình luận, phân tích chính trị, quân sự, thì bây giờ đã khá rõ nét. “Cuộc chiến” này sẽ còn kéo dài, dai dẳng, giằng co qua lại giữa các bên. Khi đã nhìn rõ kết cục của cuộc chiến, các nước bị ảnh hưởng đã và đang tìm cách hạn chế tối thiểu thiệt hại về kinh tế như kiểm soát giá xăng dầu, năng lượng, nguyên liệu; khắc phục đứt đoạn chuỗi logistics, vận chuyển truyền thống… góp phần không nhỏ chặn đà tăng và giảm dần cho phí vận chuyển.

Việt Nam là nền kinh tế phải nhập khẩu hơn 40% nguyên liệu đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu, khi giảm được chi phí trung gian sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm được giá thành sản xuất.

]]>