#Internet – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Tue, 19 Aug 2025 09:59:31 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #Internet – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Tác hại của việc lạm dụng trang điểm ở tuổi trẻ với các bé gái https://doanhnhandautu.com/tac-hai-cua-viec-lam-dung-trang-diem-o-tuoi-tre-voi-cac-be-gai/ Tue, 19 Aug 2025 09:59:28 +0000 https://doanhnhandautu.com/tac-hai-cua-viec-lam-dung-trang-diem-o-tuoi-tre-voi-cac-be-gai/

Sử dụng mỹ phẩm ở độ tuổi còn trẻ đang trở thành một vấn đề ngày càng đáng quan tâm trong xã hội hiện đại. Việc lạm dụng mỹ phẩm không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thể chất và tinh thần của các bé gái mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về sức khỏe. Các bậc phụ huynh và xã hội cần có cái nhìn nghiêm túc về vấn đề này để bảo vệ sự phát triển lành mạnh của trẻ.

Nhiều bé gái từ độ tuổi rất trẻ, khoảng bảy hoặc tám tuổi, đã bắt đầu sử dụng mỹ phẩm trên toàn bộ khuôn mặt. Việc này gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển thể chất của chúng. Khi còn nhỏ, tâm lý của các bé gái tập trung vào việc thể hiện sáng tạo, khám phá thế giới xung quanh, nhưng khi sử dụng mỹ phẩm, sự chú ý của chúng chuyển sang vẻ ngoài. Điều này có thể làm thay đổi nhận thức về bản thân và ảnh hưởng đến sự tự tin của trẻ.

Da của các bé gái nhạy cảm hơn so với người lớn và dễ bị ảnh hưởng bởi các hóa chất có hại trong mỹ phẩm. Điều này dẫn đến các vấn đề như rối loạn hormone và dậy thì sớm. Sự thay đổi này mang lại những thách thức về mặt cảm xúc và tâm lý mà các bé gái không đủ khả năng hiểu và chịu đựng. Các vấn đề về da như kích ứng, dị ứng và mất cân bằng hormone có thể xuất hiện, ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể của trẻ.

Ngày nay, nhiều bé gái đang lớn nhanh hơn độ tuổi. Trước đây, các bé gái thường vào giai đoạn dậy thì từ 11 đến 13 tuổi nhưng nay đã giảm xuống còn tám tuổi. Một phần nguyên nhân là do việc tiếp xúc với mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân không phù hợp. Sự phổ biến của các ngôi sao mạng xã hội như Instagram, Facebook với các bé gái quảng cáo và sử dụng mỹ phẩm thu hút sự quan tâm của các bé gái bình thường. Điều này tạo ra áp lực cho các bé gái nghĩ rằng nếu chúng không sử dụng mỹ phẩm thì sẽ không có sự tồn tại hoặc nổi tiếng.

Để giải quyết vấn đề này, các bậc phụ huynh cần có cách tiếp cận phù hợp trong việc giáo dục con cái về vẻ đẹp. Thay vì chỉ bảo các con trang điểm, các bậc phụ huynh nên giải thích rằng mỹ phẩm chỉ là một lựa chọn, không phải là điều cần thiết. Nếu con bạn tỏ ra quan tâm đến mỹ phẩm, đừng im lặng hoặc la mắng. Thay vào đó, khuyến khích sự tò mò của chúng bằng cách hỏi chúng thích gì về mỹ phẩm và hướng dẫn cách sử dụng một cách an toàn.

Chọn sản phẩm an toàn và phù hợp với lứa tuổi cho con bạn là rất quan trọng. Các bậc phụ huynh nên hướng dẫn con về cách trang điểm và chăm sóc da một cách đúng đắn. Đồng thời, cần tăng cường giáo dục về sự tự tin, tự trọng và giá trị thực sự của vẻ đẹp bên trong. Từ đó, giúp các bé gái phát triển một cách toàn diện và lành mạnh, tránh những ảnh hưởng tiêu cực từ việc lạm dụng mỹ phẩm.

Hơn nữa, xã hội cũng cần có trách nhiệm trong việc tạo ra một môi trường tích cực, nơi trẻ em có thể phát triển mà không bị áp lực từ vẻ đẹp không thực tế. Các chiến dịch giáo dục về sự tự tin và giá trị của bản thân cần được đẩy mạnh, giúp các bé gái hiểu rằng vẻ đẹp đích thực đến từ sự tự tin và sức khỏe, chứ không phải từ việc sử dụng mỹ phẩm.

]]>
Cô Elaine Crowley truy tìm kẻ lừa đảo trên mạng tới Quần đảo Cayman https://doanhnhandautu.com/co-elaine-crowley-truy-tim-ke-lua-dao-tren-mang-toi-quan-dao-cayman/ Fri, 08 Aug 2025 07:40:44 +0000 https://doanhnhandautu.com/co-elaine-crowley-truy-tim-ke-lua-dao-tren-mang-toi-quan-dao-cayman/

Nữ dẫn chương trình truyền hình Elaine Crowley đã lên tiếng về việc hình ảnh của cô bị sử dụng trong một kế hoạch lừa đảo giảm cân, khiến hàng ngàn người bị lừa đảo. Người dẫn chương trình của Virgin Media Ireland AM đã chia sẻ về việc cô đã truy đuổi một kẻ lừa đảo trên internet đến Quần đảo Cayman sau khi hình ảnh của cô bị sử dụng để lừa đảo người dân.

Elaine shows off her 'current belly situation'.
Elaine shows off her ‘current belly situation’.

Tuần này, Elaine Crowley cũng đã công khai vạch trần một kế hoạch lừa đảo giảm cân khác sử dụng hình ảnh giả của cô. Cô đã đăng một bức ảnh selfie cho thấy phần giữa của cơ thể mình. Trong một cuộc phỏng vấn với Sunday World, Elaine cho biết cô đã nhận được nhiều tin nhắn từ người dân hỏi về việc cô có tham gia một chương trình giảm cân hay không.

Photo: Elaine Crowley/Instagram
Photo: Elaine Crowley/Instagram

Sau đó, một người đã gửi cho cô một ảnh chụp màn hình và cô gần như ngã xuống sofa vì cười. Cô cho biết: ‘Làm thế nào mà bất kỳ ai cũng có thể nghĩ rằng đó là tôi! Tôi nghĩ đó là điều hài hước nhất, nhưng sau đó tôi nhận ra rằng có một số người bị lừa đảo.’

Elaine shows off her 'current belly situation'.
Elaine shows off her ‘current belly situation’.

Elaine đã quyết định đăng một bài viết để cảnh báo người dân về kế hoạch lừa đảo này. Cô cũng cho biết cô đã từng là nạn nhân của kế hoạch lừa đảo trực tuyến trước đây. ‘Đầu tiên, tôi bị lừa đảo khi bán viên giảm cân và tôi đã đuổi theo công ty đến Quần đảo Cayman và đe dọa hành động pháp lý,’ cô tiết lộ.

‘Việc đó đã mất vài tuần, nhưng có những người bị lừa đảo hàng ngàn euro vì họ đã đăng ký một liều viên giảm cân và sau đó bị rút tiền trực tiếp hàng tháng mà không biết.’ Elaine cho biết cô muốn có đủ khả năng để truy đuổi những gã khổng lồ truyền thông xã hội. Cô cũng hy vọng sẽ có thể giúp người dân tránh bị lừa đảo trong tương lai.

Elaine hy vọng rằng việc cô lên tiếng sẽ giúp ngăn chặn những kế hoạch lừa đảo tương tự xảy ra trong tương lai. Cô cũng muốn cảnh báo người dân về việc phải cẩn thận khi sử dụng internet và không nên tin vào những quảng cáo không rõ ràng.

Cô chia sẻ: “Tôi chỉ muốn giúp người dân tránh bị lừa đảo. Tôi hy vọng rằng việc tôi lên tiếng sẽ giúp ngăn chặn những kế hoạch lừa đảo này.”

Elaine cũng cho biết cô đã liên hệ với các công ty truyền thông xã hội để yêu cầu họ giúp ngăn chặn những kế hoạch lừa đảo này. Cô hy vọng rằng họ sẽ có hành động để bảo vệ người dùng của mình.

Hiện tại, Elaine đang tiếp tục cảnh báo người dân về những kế hoạch lừa đảo trên internet. Cô hy vọng rằng việc cô lên tiếng sẽ giúp người dân trở nên cảnh giác hơn khi sử dụng internet.

]]>
Công ty đằng sau stablecoin USDC tăng giá niêm yết gấp 6 sau IPO https://doanhnhandautu.com/cong-ty-dang-sau-stablecoin-usdc-tang-gia-niem-yet-gap-6-sau-ipo/ Sun, 27 Jul 2025 07:45:15 +0000 https://doanhnhandautu.com/cong-ty-dang-sau-stablecoin-usdc-tang-gia-niem-yet-gap-6-sau-ipo/

Xu hướng tăng trưởng vượt bậc của các stablecoin đang có tác động tích cực đến sự tăng cao của cổ phiếu CRCL. Công ty Circle Internet Group, phát hành đồng tiền kỹ thuật số USDC, đã thu hút sự chú ý của giới tài chính Phố Wall kể từ khi niêm yết vào tháng 6. Cổ phiếu của công ty đã có sự tăng trưởng ấn tượng, từ mức 31 USD lên gần 200 USD, với nhiều đợt tăng đột biến trong một ngày gây chú ý trên thị trường.

USDC là một loại stablecoin được chốt với đồng đô la Mỹ và hiện có vốn hóa thị trường lên đến 64,5 tỷ USD, đứng thứ hai sau Tether. Sự tăng trưởng này là một phần của sự bùng nổ trên thị trường tiền ảo, với giá Bitcoin hiện đang giao dịch trên mức 118.000 USD và tổng vốn hóa thị trường tiền ảo đạt 3,91 nghìn tỷ USD. Mô hình kinh doanh của Circle, tập trung vào cơ sở hạ tầng vững chắc và cách tiếp cận tuân thủ, đã giúp công ty dẫn đầu trong lĩnh vực tài chính kỹ thuật số, đặc biệt khi stablecoin ngày càng được sử dụng nhiều hơn cho thanh toán và giao dịch.

Việc Tổng thống Trump ký luật GENIUS vào tuần trước đã mở ra khả năng cho các công ty tư nhân phát hành stablecoin, điều này có thể dẫn đến việc áp dụng và sử dụng rộng rãi hơn. Luật này hứa hẹn cấp phép rõ ràng và kiểm toán dự trữ cho các nhà phát hành stablecoin, tăng cường sự tin tưởng của nhà đầu tư vào tiền kỹ thuật số. Circle đã có một đợt IPO thành công, huy động được 1,05 tỷ USD với mức định giá 6,9 tỷ USD. Một số nhà đầu tư nổi tiếng như BlackRock và ARK Invest đã thể hiện sự quan tâm mạnh mẽ đến công ty.

CEO của Circle, Jeremy Allaire, đã hình dung USDC như một nền tảng fintech biến đổi, so sánh với “khoảnh khắc iPhone”. Công ty đã ghi nhận doanh thu 1,68 tỷ USD trong năm 2024, tăng 16%, và 65 triệu USD thu nhập ròng trong quý đầu tiên. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh, Circle cũng đối mặt với những thách thức đáng kể. Sự tăng trưởng ngoạn mục của cổ phiếu phản ánh sự hưng phấn của thị trường tiền ảo và nỗi sợ bỏ lỡ của nhà đầu tư bán lẻ.

Tether hiện đang thống trị thị trường stablecoin với vốn hóa 161,7 tỷ USD, và các đối thủ mới như Paxos đe dọa thị phần của Circle. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể coi cổ phiếu CRCL bị định giá quá cao, khiến nó dễ bị ảnh hưởng bởi việc tạo ra một loại tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương. Việc cắt giảm lãi suất của Fed, được dự kiến vào tháng 9, cũng có thể ảnh hưởng đến thu nhập của Circle từ dự trữ USDC, vốn phụ thuộc nhiều vào chứng khoán chính phủ ngắn hạn.

Một phân tích của Forbes dự đoán vốn hóa thị trường của USDC có thể đạt từ 150 đến 200 tỷ USD trong ba đến năm năm tới, nhưng điều này giả định mức tăng trưởng mà một số người cho là không thực tế. Mục tiêu giá của các nhà phân tích dao động từ 80 USD đến 250 USD, phản ánh sự không chắc chắn về quỹ đạo của CRCL. Các động thái chiến lược của Circle, bao gồm cả việc được chấp thuận theo quy định của Liên minh Châu Âu và các quan hệ đối tác với các ngân hàng lớn, đã củng cố uy tín của họ.

Tuy nhiên, giá cổ phiếu của công ty vẫn biến động mạnh. Luật GENIUS có thể củng cố vị thế của Circle, nhưng sự rõ ràng về quy định cũng có thể hạ thấp rào cản đối với các đối thủ cạnh tranh. Nhà đầu tư cần cân nhắc giữa điểm mạnh của Circle và rủi ro của bong bóng đầu cơ. Khả năng của Circle trong việc mở rộng thị phần của USDC và đa dạng hóa doanh thu sẽ rất quan trọng. Hiện tại, CRCL mang lại một cơ hội duy nhất cho việc áp dụng stablecoin, nhưng mức định giá cao đòi hỏi sự thận trọng.

]]>
Hành trình của những người hùng số https://doanhnhandautu.com/hanh-trinh-cua-nhung-nguoi-hung-so/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:33 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4922 Họ là những người tiên phong, có tầm nhìn xa, có tinh thần đổi mới quyết liệt, đã vượt qua nhiều sóng gió để đưa Internet về Việt Nam hơn 25 năm trước, tạo động lực, nền tảng cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội…]]>
Họ là những người tiên phong, có tầm nhìn xa, có tinh thần đổi mới quyết liệt, đã vượt qua nhiều sóng gió để đưa Internet về Việt Nam hơn 25 năm trước, tạo động lực, nền tảng cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội…
Hành trình của những người hùng số
Ông Mai Liên Trực (thứ tư từ trái sang), ông Vũ Hoàng Liên (thứ tư từ phải sang) – những người được đánh giá là có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển Internet tại Việt Nam gia đoạn 1997-2017, trong Lễ kỷ niệm 25 năm Internet tại Việt Nam, tháng 12/2022

Từ những thử nghiệm đầu tiên…

Năm 1991, Tim Berners Lee ở Trung tâm Nghiên cứu nguyên tử châu Âu (Cern) phát minh ra World Wide Web (www) dựa theo một ý tưởng về siêu văn bản được Ted Nelson đưa ra từ năm 1985. Internet được thử nghiệm, áp dụng ban đầu tại các nước phát triển, nhưng ở Việt Nam khi đó, hầu như chưa ai biết về “công trình vĩ đại nhất lịch sử nhân loại” này.

Cũng trong năm 1991, TS. Mai Liêm Trực, Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện sang Mỹ dự Hội nghị quốc tế về Thông tin vệ tinh. Lúc đó, Mỹ đang cấm vận, Việt Nam như một “ốc đảo”, thậm chí, visa cấp cho đoàn Việt Nam kèm yêu cầu “không được đi cách Nhà Trắng 35 dặm”.

Dự Hội nghị, ông Trực thấy văn phòng các đoàn  gõ tài liệu vào máy tính, rồi dùng đường dây điện thoại truyền thư đi. Trong khi đó, ở Việt Nam, muốn chuyển một bức thư đi vùng sâu, vùng xa phải mất hàng tuần. Ông Trực mê mẩn, đeo bám các đoàn tìm hiểu kỹ và rất muốn đưa Internet về Việt Nam.

Với tầm nhìn xa, ông Trực đã nghĩ rằng, đất nước sẽ không thể hội nhập và phát triển nếu không có Internet. Internet sẽ như một cánh cửa, một phương thức để Việt Nam vượt ra khỏi tình trạng bị cô lập và hội nhập với thế giới để không bị tụt hậu.

Nhưng, muốn đưa Internet vào Việt Nam phải có 3 điều kiện: có mạng điện thoại tự động kết nối trong nước và quốc tế; nguồn nhân lực, doanh nghiệp hiểu được công nghệ Internet để tổ chức khai thác kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho xã hội; quan trọng nhất là phải được lãnh đạo Đảng và Nhà nước cho phép mở mạng Internet. Đó là thử thách lớn trong bối cảnh Việt Nam vừa bắt đầu đổi mới.

Cùng năm 1991, ông Trần Bá Thái, Chủ tịch NetNam, người từng được Tuần báo Á châu (Asia Week) bình chọn là “Người hùng kỹ thuật số” (Digital Hero), lúc đó đang công tác ở Viện Khoa học Việt Nam, đã bỏ tiền túi tham dự cuộc họp Internet quốc tế ở Kobe (Nhật Bản).

Trở về nước, ông Thái và đồng sự đã được thử nghiệm Internet với một trường đại học của Đức trong khuôn khổ dự án của UNDP. Họ làm những bước đầu tiên của việc xây dựng hạ tầng Internet, như xây dựng account, thử nghiệm các công nghệ cơ bản. Lúc đó, chưa có tên miền Việt Nam, nhưng đã phải thử nghiệm email trên máy chủ của trường đại học Đức, dựa trên công nghệ nền của Unix.

Vì chưa có modem, nên tốc độ kết nối Internet rất chậm. Khi thử nghiệm với Đức, họ chưa làm được, vì đó là dự án Internet, chưa có khoản ngân sách chi cho việc này.

“Tiền đề tài nghiên cứu của tôi từ các dự án khác gom góp được hơn 10 triệu đồng đem ‘nướng’ hết vào nghiên cứu nối thử Internet đi Đức trong vòng một tuần. Sau đó hết kinh phí, nên việc nghiên cứu Internet dừng lại để tiếp tục tìm kiếm nguồn kinh phí khác”, ông Thái bồi hồi nhớ lại.

Thời điểm này, GS. Rob Hurle (Trường đại học Quốc gia Australia – ANU) sang Việt Nam với hành trang là modem “to đùng” tặng sinh viên  với mong muốn các cựu sinh viên có thể kết nối với thế giới sau khi đi học về nước. Lúc đó, 1 phút gọi sang Australia là 5 USD, trong khi lương kỹ sư chỉ có 20 USD/tháng.

Vài tháng sau, qua giới thiệu của một người bạn, GS. Rob Hurle liên lạc được với ông Trần Bá Thái và cùng bắt tay khởi động lại việc thử nghiệm kết nối Internet.

“Lúc này, tại ANU, chúng tôi đã thực hiện những thay đổi quan trọng làm thay đổi hệ thống máy tính lớn, các máy tính ở ANU đã được thay bằng máy nhỏ, nhưng có cấu hình cao hơn, chạy bằng hệ thống Unix. Tôi bàn với ông Thái và một vài người bạn thực hiện thí nghiệm liên lạc tới Việt Nam từ Australia. Tôi viết thêm một vài phần mềm cho hệ thống Unix nhằm kết nối modem để liên lạc với Việt Nam. Từ Việt Nam, các bạn sẽ truy cập vào hệ thống Unix và kết nối được với Internet”, GS. Rob Hurle hồi tưởng.

Còn ở phía Việt Nam, ông Thái và đồng sự mua phần mềm Shareware có mã nguồn mở về tự phát triển cho chạy trên Dos nối với máy chủ Unix của ANU để tạo phần mềm cho người sử dụng cuối cùng.

Thời điểm đó, nhóm nghiên cứu của ông Thái và GS. Rob Hurle tạo tài khoản, thử nghiệm với tên miền của Australia, vì tên miền quốc gia của Việt Nam “.vn” chưa được đăng ký trên Internet.  Email đầu tiên lập ở Australia là [email protected], được dùng như một thùng thư đầu mối cho toàn bộ email liên lạc giữa Việt Nam và thế giới. Mỗi người sử dụng ở Việt Nam được tạo một địa chỉ email mang tên miền Việt Nam theo dạng [email protected] Khi chuyển sang Australia, những địa chỉ này được gắn dưới đuôi coombs.anu.edu.au để thông thương quốc tế.

Thử nghiệm thành công, mở đường cho những trải nghiệm đầu tiên sử dụng Internet của người Việt: có hộp thư điện tử riêng, tuy vẫn phải dùng đuôi “.au” của Australia.

Tháng 3/1993, Telstra (Australia) mở cuộc hội thảo tại Hà Nội. Đó cũng là lần đầu tiên ông Thái và GS. Rob Hurle gặp nhau, cùng bàn bạc cần làm gì để phát triển Internet.

“Có 2 lý do tôi muốn làm việc này. Thứ nhất, tôi cảm thấy có lỗi khi đất nước tôi tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi muốn làm điều gì đó để ‘chuộc lỗi’, giúp Việt Nam kết nối với thế giới. Thứ hai, các học sinh Việt Nam hiếu học của tôi khi học xong ở Australia về nước ít có cơ hội sử dụng các kiến thức họ học được, tôi muốn giúp họ”, GS. Rob Hurle chia sẻ.

Còn ông Trần Bá Thái thì thẳng thắn cho rằng, việc tìm kiếm con đường đưa Internet vào Việt Nam không phải điều gì quá cao siêu, mà chỉ xuất phát từ nhu cầu thực tế. Ở trong nước, chúng ta có đội ngũ các nhà khoa học, nghiên cứu viên được đào tạo bài bản ở nước ngoài đã từng tiếp xúc, từng biết về Internet và mong mỏi có Internet ở Việt Nam. Đó cũng là thời điểm Việt Nam đang bị cô lập với thế giới, đang nghèo và khó khăn, cần tìm kiếm cơ hội mở cánh cửa hội nhập. Mặt khác, tại Việt Nam có một đội ngũ chuyên gia nước ngoài làm việc, họ có nhu cầu thông tin liên lạc mà họ đã quen và cần sử dụng. Trong đó, có nhiều người hiểu và giỏi công nghệ thông tin (CNTT), sẵn sàng tham gia đóng góp công sức, kết hợp với sự hỗ trợ từ các trường đại học, các nhóm CNTT trong nước.

Từ năm 1994, ngoài mạng VAREnet (Vietnam Academic Research & Educational Network) của ông Thái và GS. Rob Hurle, các nhóm nghiên cứu thử nghiệm Internet khác cũng đạt được nhiều kết quả như: Trung tâm Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường liên kết với mạng Toolnet của Hà Lan vào năm 1994; Trung tâm Khoa học và Công nghệ thuộc Sở Khoa học – Công nghệ và Môi trường TP.HCM liên kết với nút mạng ở Singapore vào năm 1995 với tên gọi là mạng HCMCNET; Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC) thuộc VNPT tại 2 địa điểm Hà Nội và TP.HCM thông qua 2 cổng quốc tế 64 kB/s kết nối Internet Sprintlink (Mỹ) vào năm 1996…

Từ những thử nghiệm đầu tiên…

Đến email đầu tiên của Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Tháng 4/1994, ông Thái được GS. Đặng Hữu, Bộ trưởng Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường giao nhiệm vụ thiết lập email phục vụ chuyến viếng thăm của Thủ tướng Thụy Điển.

GS. Đặng Hữu ký quyết định cho nhóm chuyên gia của Viện CNTT mượn hẳn chiếc Volga phục vụ việc đi lại tiến hành thiết lập email, nhưng nhóm không nhận bất cứ hỗ trợ gì ngoài sự cho phép mở hệ thống email. Ông Thái đã bỏ tiền túi mua một chiếc laptop cũ đen trắng nặng khoảng 3 – 4 kg của một Việt kiều ở Mỹ mang về.

Thời điểm đó, Internet vẫn là khái niệm xa lạ, nên để có tên miền Việt Nam (.vn), GS. Trần Văn Đắc (Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường) phải ký công văn (không đóng dấu) rồi fax sang Trung tâm Mạng lưới thông tin châu Á – Thái Bình Dương (APNIC) để đăng ký tên miền. Sau khi có địa chỉ tên miền, ông Thái mới tạo lập email server đầu tiên có tên miền Việt Nam.

“Chúng tôi chưa có kinh nghiệm về tên miền, nên lấy địa chỉ email của Thủ tướng là [email protected] Trước đó, chúng tôi đã trao đổi với Ban Thư ký của Thủ tướng, tìm ra một cái tên ‘badinh’ chung chung và có hình ảnh nơi làm việc của Chính phủ. Địa chỉ [email protected] cũng được thử, nhưng bị lạc thư, nên đành phải chuyển lại địa chỉ [email protected]”, ông Thái kể.

Quá trình thử email rất phức tạp, phải thử kết nối cả với nhóm thư ký của Thủ tướng Thụy Điển. Khi nối xong, bắt đầu nhận email thì đúng dịp lễ Phục sinh, nên nhóm thư ký này nghỉ lễ. Liệu tiến độ công việc có kịp cho hai nguyên thủ quốc gia “gặp nhau” qua email trước khi chính thức gặp mặt hay không? Sau lễ Phục sinh, Thủ tướng Thụy Điển sẽ thăm Việt Nam và như vậy, việc chuẩn bị thiết lập thư điện tử xem như “phá sản”.

“Thế nhưng, điều tưởng là ‘sự cố’ thì hóa ra lại thuận lợi, bởi nhóm thư ký vẫn làm việc ở nhà. Ngay sau đó, tiếp tục diễn ra việc thử nghiệm gửi và nhận email, rồi cài thẳng phần mềm nhận thư vào laptop của Ban Thư ký của Thủ tướng Võ Văn Kiệt”, ông Thái hồi tưởng. 

Nhớ lại sự kiện khi đó, ông Đặng Thế Truyền, nguyên Thư ký của Thủ tướng Võ Văn Kiệt kể: “Buổi sáng hôm đó, Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng anh Thái và một số cán bộ vào phòng làm việc của tôi ở ngôi nhà 2 tầng bên ngoài cổng chính của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng (sau là Văn phòng Chính phủ), nơi đặt chiếc máy tính của chúng tôi. Anh Thái thực hiện thao tác kỹ thuật, rồi nói tôi đánh mấy dòng ngắn bằng tiếng Anh lời chào của Thủ tướng Võ Văn Kiệt tới Thủ tướng Thụy Điển. Sau đó, anh Thái chỉ nút ‘Enter’ và mời Thủ tướng Võ Văn Kiệt gõ vào nút đó. Vậy là xong. Khi đó, tôi chưa có khái niệm gì về email. Tôi nhớ, mọi việc diễn ra khá nhanh. Thủ tướng và mọi người rời văn phòng”.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt là nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam có địa chỉ emai. Thủ tướng đã dùng email để trao đổi với Thủ tướng Thụy Điển Carl Bildt, chuẩn bị cho chuyến thăm của Thủ tướng Thụy Điển đến Việt Nam và trở thành vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên của một nước đang phát triển sử dụng email để trao đổi chính thức với nguyên thủ quốc gia khác.

“Email đầu tiên được Thủ tướng sử dụng mang tính biểu trưng rất cao, thể hiện tầm nhìn của lãnh đạo cấp cao, truyền cảm hứng cho rất nhiều người và cũng làm chúng tôi bớt sợ”, ông Thái cười và nói.

Khi nghiên cứu, thử nghiệm đưa Internet về Việt Nam, ông Trần Bá Thái đang là Kỹ sư trưởng một dự án của Liên hiệp quốc về CNTT. Công việc và điều kiện tiếp xúc đã sớm giúp ông nhận thức được sức mạnh của Internet. Nhưng theo ông, điều may mắn nhất là Viện Khoa học Việt Nam có sự “nới lỏng” nhất định, các lãnh đạo Viện như GS – Viện sĩ Đặng Vũ Minh, GS. Bạch Hưng Khang, GS. Nguyễn Mạnh Tuấn là những người cấp tiến, sẵn sàng chia sẻ, thúc đẩy sự ham muốn khám phá Internet. Yếu tố trong nước cộng với yếu tố nước ngoài, nhân lực, nguồn lực và những nhà lãnh đạo có tầm nhìn đã giúp Viện Khoa học Việt Nam, đi đầu là Viện CNTT, thành công trong bước đầu khai thông Internet.

Internet thử nghiệm thành công, kết nối được với thế giới, nhưng để “khai sinh” Internet, cho Internet hoạt động tại Việt Nam lại là một hành trình không kém phần chông gai…

Và… “”cược ghế”” để kết nối Internet

Đến năm 1995, Việt Nam đã số hóa, tự động hóa hoàn toàn mạng viễn thông cả nước bằng các tổng đài điện tử kỹ thuật số, các đường truyền cáp quang, viba số. Đó là cơ sở quan trọng nhất để đưa Internet vào Việt Nam. Mặt khác, công nghệ Internet cũng không quá phức tạp, đầu tư cũng không lớn. Trong khi đó, thử nghiệm của Viện CNTT, VDC, FPT… đã chín muồi. Vấn đề còn lại chỉ là xin phép Chính phủ đồng ý cho Việt Nam tham gia mạng Internet toàn cầu.

Và… “”cược ghế”” để kết nối InternetInternet là một trong những thành tố quan trọng nhất để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây thực sự đã trở thành một trong những hạ tầng quan trọng nhất, thiết yếu nhất của nhân loại.

– Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng

“Tôi nhớ, năm 1996, Thái Lan vừa khai trương Internet, tôi có dự một hội nghị quốc tế ở quốc gia này. Khi chia tay tạm biệt tôi, họ nói là ‘See you on Internet’, chứ không nói là ‘See you again’. Mình cũng sốt ruột, vì họ đã có Internet và mình cũng mong mình có. Mở Internet là một cơ hội lớn, không thể bỏ lỡ. Nhưng không hề đơn giản…”, TS. Mai Liêm Trực nhớ lại.

Giới hạn về công nghệ, kỹ thuật, nguồn lực còn có thể khắc phục được, nhưng đó chưa phải là thách thức lớn nhất. Thách thức lớn nhất lúc đó chính là rào cản về tư duy, về nỗi sợ hãi “mở cửa là mất” của một bộ phận cán bộ lãnh đạo.

“Trong cuộc chuẩn bị đưa Internet vào Việt Nam, những người chưa muốn mở cửa cho Internet có 3 lo ngại về tác hại có thể xảy ra. Thứ nhất, sợ lộ bí mật nhà nước. Đây là điều dễ hiểu, vì đất nước ta trải qua liên tiếp mấy cuộc chiến tranh dài, nên còn nhiều ý kiến lo ngại, muốn bảo vệ đất nước, thấy cần phải quản lý chặt chẽ, sợ lộ bí mật ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Thứ hai, là ý kiến lo lắng phát tán thông tin nói xấu chế độ, lãnh đạo. Thứ ba, là lo ngại ảnh hưởng của văn hóa đồi trụy… Lúc đó, trong nước, chúng ta chưa biết nhiều về Internet, nhiều thứ chỉ là nghe nói, nhưng càng chưa biết rõ ràng, thì càng có tâm lý lo ngại”, ông Trực cho biết.

Không còn cách nào khác, ông Trực cùng các đồng sự của mình đã kiên trì thuyết phục, giải trình với lãnh đạo cấp cao suốt 3 năm. Họ đã tìm cách “hạ nhiệt” các vấn đề lo ngại của lãnh đạo cấp cao về những tác hại có thể xảy ra nếu cho Internet vào Việt Nam. Họ cũng khẳng định một cách trung thực là, đưa Internet vào Việt Nam không thể hạn chế tuyệt đối những vấn đề mặt trái, nhưng sẽ phải có giải pháp hạn chế tối đa những tiêu cực đó.

Thuyết phục để các nhà lãnh đạo thấy, mở cửa cho Internet là cái lợi phải lớn hơn cái hại, có lợi rất lớn đối với việc phát triển đất nước. Những lợi ích được nêu ra là đất nước đang mở cửa, bắt đầu hội nhập, phát triển thương mại, thì phải có Internet để giao thương với thế giới và thu hút doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam làm ăn. Có Internet cũng sẽ tăng đáng kể thông tin đối ngoại, quảng bá về đất nước với thế giới…

Thời điểm đó, may mắn là sức ép về hội nhập quốc tế đang tăng nhanh. Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN. Nếu còn đóng cửa với Internet thì rõ ràng Việt Nam không thể hội nhập.

“Tháng 8/1997, chúng tôi gồm anh Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an và anh Chu Hảo, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ lên báo cáo Thường trực Bộ Chính trị, cụ Lê Khả Phiêu. Cụ hỏi rất nhiều: Intetnet có khiến lộ bí mật Nhà nước không, quản lý thế nào, có cách nào chặn được hết không?… Tôi mạnh dạn trình bày: Xin báo cáo đồng chí là không thể nào ngăn được hết. Nhưng chúng tôi đã xây dựng các giải pháp quản lý chặt chẽ. Có 3 giải pháp để hạn chế những mặt tiêu cực của Internet. Về kỹ thuật thì có ‘tường lửa’, tiếp đến là giải pháp về hành chính, pháp lý và tuyên truyền, hướng dẫn, giáo dục để nâng cao dân trí lên, để người ta chọn cái hay, cái đẹp. Nghe xong, cụ Phiêu nói: Nghe các cậu báo cáo cũng hay đấy! Thôi sang báo cáo Thủ tướng”, ông Trực nhớ lại.

Ông kể tiếp: “Chúng tôi sang báo cáo Thủ tướng tại nhà riêng. Thủ tướng dặn dò: Thường vụ Bộ Chính trị đã ủng hộ, thì Thủ tướng ủng hộ thôi. Nhưng các cậu nói được là làm được nha! Khi tiễn tôi ra đến cổng, Thủ tướng quàng tay lên vai tôi, vỗ vỗ, bảo: Trực cố gắng quản lý Internet cho tốt, chứ nếu mở ra mà phải đóng lại, thì không biết phải ăn nói với thế giới thế nào”.

Thời điểm đó, có lẽ, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đặt niềm tin vào một đội ngũ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm hơn là những căn cứ thuyết phục về kỹ thuật, công nghệ mà họ đưa ra.

“Tôi có may mắn là có sự tin cậy, nên đã dám nói một cách mạnh mẽ và tự tin chịu trách nhiệm để thuyết phục mở Internet mà không sợ có sự hiểu lầm. Tôi thấm nhuần câu nói của Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Nếu làm việc mà cứ cúi nhìn vào ‘chân ghế’, thì chẳng làm được việc gì cả”. Thế nên, lúc đó, chúng tôi cũng xác định, nếu mở Internet mà có việc gì xảy ra, thì sẽ phải là người lãnh trách nhiệm và chúng tôi sẵn sàng chấp nhận những trách nhiệm này”, ông Trực khẳng định.

Ngày 19/11/1997 là ngày lịch sử của Internet Việt Nam. Tại trụ sở Tổng cục Bưu điện, thay mặt Ủy ban Điều phối quốc gia về Internet Việt Nam, ông Mai Liêm Trực, Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện đã tổ chức họp báo quốc tế, công bố Việt Nam chính thức kết nối với mạng Internet toàn cầu.

“Tâm trạng tôi lúc đó rất mừng, vì cả một thời cơ lớn đã không bị mất đi và đất nước từ nay đã có phương tiện để thay đổi. Tôi còn mừng vì công sức của bao nhiêu anh em lâu nay mong muốn đưa Internet vào Việt Nam đã thành hiện thực. Lúc bấy giờ xen lẫn vui mừng, tôi cũng rất tự tin, nên khi tổ chức họp báo với các hãng thông tấn nước ngoài, tôi hứng khởi nói bằng tiếng Anh để khi các hãng tin này phát ra trên thế giới không bị tam sao thất bản do phải dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh”, ông Trực mỉm cười hóm hỉnh.

Internet đã kết nối với thế giới, nhưng khi đó chưa thực sự được cởi trói do quan điểm “quản đến đâu, mở đến đấy”.

“Để phát triển mạnh Internet, thứ nhất, phải thuyết phục lãnh đạo cấp cao; thứ hai, là thuyết phục cơ quan chức năng như Bộ Công an, Bộ Văn hóa – Thông tin. Phải làm sao đưa quan điểm ‘năng lực quản lý phải theo kịp yêu cầu phát triển’, thay quan điểm cũ thì mới ‘cởi trói’ được cho Internet”, ông Trực nói.

Sau quá trình thuyết phục bền bỉ, đến tháng 10/2000, quan điểm mới đã thế chỗ quan điểm cũ. Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” ra đời, tạo đà phát triển nhanh và mạnh cho Internet sau này.

Sau 25 năm “nhấn nút” kết nối Internet toàn cầu, Internet đã trở thành nhu cầu thiết yếu của người dân, là nền tảng để phát triển kinh tế số, xã hội số ở Việt Nam. Báo cáo của Google, Temasek và Bain & Company dự báo, tổng doanh thu kinh tế Internet Việt Nam đến năm 2025 sẽ đạt mức 57 tỷ USD.

Trải qua 25 năm phát triển, Internet Việt Nam đã chuyển đổi từ hạ tầng thông tin liên lạc thành hạ tầng số của nền kinh tế số, tức là hạ tầng của mọi ngành nghề, mọi doanh nghiệp và mọi người dân.

Việt Nam phát triển mạnh mẽ, toàn diện như ngày hôm nay là kết quả của gần 4 thập kỷ đổi mới. Trong đó, đổi mới ngành viễn thông là tiên phong, tạo động lực, nền tảng cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế. Lịch sử ghi nhận và biết ơn những người có tầm nhìn xa, có tinh thần đổi mới quyết liệt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để đổi mới viễn thông – CNTT, đưa Internet về Việt Nam, họ xứng đáng được gọi là “người hùng Internet” của Việt Nam.

Top 10 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển Internet tại Việt Nam 1997 – 2007

(do Câu lạc bộ Nhà báo công nghệ thông tin Việt Nam bình chọn, năm 2007)

1. TS. Mai Liêm Trực, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện

2. Ông Trần Bá Thái, Giám đốc Công ty NetNam

3. Ông Vũ Hoàng Liên, Giám đốc Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC)

4. GS. Đặng Hữu, nguyên Trưởng ban Chỉ đạo công nghệ thông tin của cơ quan Đảng

5. Ông Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ

6. Ông Nguyễn Quang A, nguyên Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam

7. Ông Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Tập đoàn FPT

8. Ông Đỗ Trung Tá, nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông)

9. Ông Trương Đình Anh, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom)

10. Ông Nguyễn Khánh, nguyên Phó thủ tướng Chính phủ

Top 10 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển Internet tại Việt Nam 2007 – 2017

(do Câu lạc bộ Nhà báo công nghệ thông tin, Hiệp hội Internet Việt Nam bình chọn, năm 2017)

1. TS. Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông

2. Ông Lê Nam Thắng, nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông

3. Ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hội Internet Việt Nam

4. Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Viettel

5. Ông Trần Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐQT VNPT

6. Ông Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT FPT

7. Ông Lê Hồng Minh, Chủ tịch HĐQT VNG

8. Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch HĐQT CMC

9. Ông Nguyễn Tử Quảng, Chủ tịch HĐQT Bkav

10. Ông Thang Đức Thắng, Tổng biên tập VnExpress

]]>
Lâm Đồng: Hơn 3.500 cơ sở lưu trú được cấp tài khoản để đăng ký qua mạng https://doanhnhandautu.com/lam-dong-hon-3-500-co-so-luu-tru-duoc-cap-tai-khoan-de-dang-ky-qua-mang/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:29 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5765 Trên 3.500 cơ sở lưu trú ở Lâm Đồng được cấp tài khoản trên Cổng thông tin và Ứng dụng Du lịch thông minh để thực hiện việc đăng ký khách du lịch lưu trú qua mạng Internet.]]>
Trên 3.500 cơ sở lưu trú ở Lâm Đồng được cấp tài khoản trên Cổng thông tin và Ứng dụng Du lịch thông minh để thực hiện việc đăng ký khách du lịch lưu trú qua mạng Internet.

Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng, triển khai thực hiện Quyết định số 06/2015/QĐ-UBND ngày 29/01/2015 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc ban hành Quy chế phối hợp quản lý, đăng ký khách du lịch lưu trú qua mạng Internet trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, cơ quan chức năng có liên quan đã cấp tài khoản cho trên 3.500 cơ sở lưu trú để thực hiện việc đăng ký qua mạng Internet.

Ngoài việc đăng ký lưu trú, thông qua ứng dụng các văn bản chỉ đạo của tỉnh, sở, ngành đối với hoạt động kinh doanh du lịch cũng kịp thời được chuyển tải đến các đơn vị, đặc biệt đối với các nội dung về phòng chống dịch, bệnh Covid – 19 trên địa bàn tỉnh.

Cụ thể, trong thời gian cao điểm dịch bệnh Covid – 19 diễn ra, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã xây dựng thêm nội dung thống kê cơ cấu khách nội địa phục vụ cho công tác xác định vùng dịch và tạo điều kiện cho ngành y tế phối hợp khoanh vùng chống dịch kịp thời.

Về việc thực hiện “Cổng thông tin và Ứng dụng Du lịch thông minh”, hiện nay, ngoài 2 trang web chính thức về du lịch của tỉnh đang được vận hành là https://svhttdl.lamdong.gov.vn/ và https://dalat-info.vn/, ngành văn hóa, thể thao và du lịch Lâm Đồng đã phối hợp với Viễn thông Lâm Đồng xây dựng thêm kênh thông tin chính thức, đậm nét và phong phú giúp cho du khách nhanh chóng có những lựa chọn phù hợp cho một chuyến du lịch đến thành phố Đà Lạt, đó là Cổng thông tin du lịch https://dalat.vn và phần mềm ứng dụng du lịch Dalat City.

Đối với Cổng thông tin du lịch https://dalat.vn và phần mềm ứng dụng Dalat City, đến nay, đã cập nhật được 1.276 khách sạn, cơ sở lưu trú; 778 nhà hàng; 613 địa điểm du lịch, tham quan, giải trí; 85 địa điểm mua sắm và 523 địa điểm tiện ích công cộng (danh bạ công an, ATM, cây xăng, bệnh viện, nhà thuốc, nhà xe, bãi đỗ xe,…) và các thông tin về tỷ giá, thời tiết… Qua đây, du khách có thể thực hiện một chương trình du lịch hoàn toàn qua hệ thống Internet, từ tìm hiểu, cập nhật thông tin về thành phố Đà Lạt thông qua các cổng thông tin du lịch, mạng xã hội và các diễn đàn du lịch; đặt vé, phòng khách sạn qua mạng; tra cứu các sự kiện văn hóa, điểm đến, ẩm thực, giao thông, thời tiết; tương tác mạng xã hội trên suốt lịch trình; nhận các thông tin sự kiện văn hóa, lễ hội, du lịch; đánh giá, góp ý về chất lượng dịch vụ, phục vụ của du khách khi đến tham quan nghỉ dưỡng tại Đà Lạt.

Ngoài việc sử dụng các tiện ích của ứng dụng, khách du lịch có thể liên hệ với các cơ quan chức năng qua số điện thoại đường dây nóng 19001067 để được hỗ trợ giải quyết các vấn đề phát sinh khi du lịch tại Đà Lạt. Tổng số lượt truy cập Cổng thông tin du lịch là 1.174.838 lượt. Tổng số lượt tải ứng dụng trên các thiết bị di động thông minh là 22.518 lượt.

]]>