# GDP – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:37:47 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # GDP – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Trung Quốc xoay trục chính sách Covid-19, triển vọng kinh tế tích cực https://doanhnhandautu.com/trung-quoc-xoay-truc-chinh-sach-covid-19-trien-vong-kinh-te-tich-cuc/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:30 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2407 Triển vọng phục hồi của Trung Quốc được dự báo tích cực khi quốc gia này tiến gần đến việc mở cửa hoàn toàn sau 3 năm áp dụng chính sách chống dịch Covid-19 nghiêm ngặt.]]>
Triển vọng phục hồi của Trung Quốc được dự báo tích cực khi quốc gia này tiến gần đến việc mở cửa hoàn toàn sau 3 năm áp dụng chính sách chống dịch Covid-19 nghiêm ngặt.
Suy thoái kinh tế toàn cầu có thể xảy ra là một mối lo ngại chính khác sẽ định hình bối cảnh kinh tế của Trung Quốc vào năm 2023. Ảnh: AFP
Suy thoái kinh tế toàn cầu có thể là mối lo ngại lớn sẽ định hình bối cảnh kinh tế của Trung Quốc trong năm 2023. Ảnh: AFP

Tăng trưởng năm 2023 ước đạt 5%

Bắc Kinh mới đây bất ngờ “xoay trục” chính sách phòng chống dịch nghiêm ngặt Zero-Covid, một chiến lược đã khiến doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề trong thời gian dài. Động thái mới được kỳ vọng sẽ tiếp thêm sức sống vào nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong năm 2023.

Việc phong tỏa và hạn chế biên giới do đại dịch Covid-19 đã khiến Trung Quốc không khớp nhịp với phần còn lại của thế giới, làm gián đoạn chuỗi cung ứng và gây tổn hại đến dòng chảy thương mại và đầu tư toàn cầu.

Trong lúc thế giới đang đối mặt với những thách thức lớn, bao gồm tình trạng thiếu năng lượng, tăng trưởng chậm lại và lạm phát cao, việc Trung Quốc mở cửa trở lại được kỳ vọng là sự thúc đẩy kịp thời và cần thiết cho nền kinh tế toàn cầu.

Đài CNN dẫn quan điểm của các chuyên gia kinh tế cho rằng, quá trình mở cửa trở lại của Trung Quốc có thể diễn ra thất thường và khó khăn khi nền kinh tế này sẽ trải qua một chặng đường gập ghềnh trong vài tháng đầu năm 2023.

Họ nói thêm rằng, sự suy thoái gần đây của ngành bất động sản Trung Quốc và một “cuộc suy thoái toàn cầu tiềm ẩn” cũng có thể gây ra nhiều vấn đề đau đầu hơn trong năm 2023.

“Trong ngắn hạn, tôi tin rằng nền kinh tế Trung Quốc có thể sẽ gặp hỗn loạn hơn là tiến triển vì một lý do đơn giản: Sự chuẩn bị ứng phó với Covid-19 của Trung Quốc là kém”, ông Bo Zhuang, nhà phân tích cấp cao tại Loomis, Sayles & Company (Mỹ), nhận xét.

Trong gần 3 năm, Trung Quốc kiên định với cách tiếp cận không khoan nhượng đối với dịch Covid-19, mặc dù chính sách này đã gây ra thiệt hại kinh tế chưa từng có. Năm 2022, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc chậm lại rõ rệt, lợi nhuận của khu vực doanh nghiệp sụt giảm và tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên tăng lên mức kỷ lục.

Trong bối cảnh bất ổn cộng đồng ngày càng gia tăng và áp lực tài chính, tháng 12/2022 chính quyền Trung Quốc đã đột ngột thay đổi hướng đi để ngăn chặn dịch Covid-19 hiệu quả.

Mặc dù việc nới lỏng các hạn chế phòng chống dịch là biện pháp cứu trợ được mong đợi từ lâu, nhưng việc đột ngột “xoay trục” chính sách chống dịch của Trung Quốc cũng khiến giới phân tích không khỏi bất ngờ.

“Trong giai đoạn đầu, tôi tin rằng việc mở cửa trở lại có thể tạo ra một làn sóng các ca nhiễm Covid-19 có thể gia tăng áp lực lên hệ thống chăm sóc sức khỏe, làm giảm mức tiêu thụ và sản xuất trong quá trình này”, ông Zhuang nhận định.

Hiện tại, sự lây lan nhanh chóng của dịch Covid-19 khiến nhiều người dân phải ở trong nhà, còn các cửa hàng và nhà hàng vắng khách. Các nhà máy và công ty cũng buộc phải đóng cửa hoặc cắt giảm sản xuất vì số lượng công nhân nhiễm bệnh tăng lên.

Các nhà phân tích tại Capital Economics cho rằng: “Sống chung với Covid-19 sẽ khó khăn hơn nhiều người nghĩ”. Họ dự đoán nền kinh tế Trung Quốc sẽ suy giảm 0,8% trong quý I/2023 trước khi phục hồi trong quý II.

Các chuyên gia khác cũng kỳ vọng nền kinh tế Trung Quốc sẽ phục hồi sau quý I. Trong một báo cáo công bố gần đây, các nhà kinh tế học của HSBC dự đoán nền kinh tế Trung Quốc suy giảm 0,5% trong quý I, nhưng mức tăng trưởng chung của năm 2023 ước đạt 5%.

Thách thức từ thị trường bất động sản

Năm 2023, giới phân tích sẽ tiếp tục các biện pháp chính sách mà giới chức Trung Quốc áp dụng nhằm cứu trợ ngành bất động sản đang suy yếu của nước này – một lĩnh vực đóng góp gần 30% GDP.

Cuộc khủng hoảng bất động sản ở Trung Quốc xuất hiện từ cuối năm 2021 khi một số nhà phát triển bất động lớn, trong đó có Evergrande, rơi vào tình trạng mất khả năng trả nợ.

Khủng hoảng bất động sản khiến các dự án nhà ở dang dở ở Trung Quốc phải trì hoãn hoặc tạm dừng thi công. Tình trạng này vấp phải sự chỉ trích của những người mua nhà và họ đã từ chối trả tiền thế chấp cho những căn nhà chưa hoàn thành.

Dù Bắc Kinh đã thực hiện một loạt nỗ lực để giải cứu ngành bất động sản, bao gồm cả việc công bố kế hoạch 16 điểm vào tháng 11/2022 để xoa dịu khủng hoảng tín dụng, nhưng số liệu thống kê cho thấy “bức tranh” bất động sản vẫn ảm đạm. Cụ thể, doanh số bán bất động sản đã giảm hơn 26% trong 11 tháng đầu năm 2022, còn đầu tư vào lĩnh vực này sụt giảm 9,8%.

Theo đài CNN, tại một cuộc họp chính sách quan trọng vào đầu tháng 12/2022, các nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc đã tuyên bố sẽ tập trung vào việc thúc đẩy nền kinh tế trong năm 2023, đồng thời họ sẽ đưa ra các biện pháp mới nhằm cải thiện tình hình tài chính của ngành bất động sản và củng cố niềm tin của thị trường.

Tuy nhiên, “các biện pháp được công bố cho đến nay là không đủ để thúc đẩy sự thay đổi, nhưng các nhà hoạch định chính sách đã phát tín hiệu rằng sẽ có nhiều hỗ trợ hơn nữa”, các nhà phân tích của Capital Economics nhận xét.

“Điều này sẽ trấn an người mua nhà, đủ để nâng doanh số bán hàng có lẽ trước giữa năm 2023”, Capital Economics đánh giá.

Nặng nỗi lo suy thoái toàn cầu

Suy thoái kinh tế toàn cầu có thể xảy ra là một mối lo ngại lớn khác sẽ định hình bối cảnh kinh tế của Trung Quốc trong năm 2023.

Thương mại đã hỗ trợ phần lớn tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vào đầu năm 2022, khi xuất khẩu được thúc đẩy nhờ giá hàng hóa tăng và đồng tiền của nước này suy yếu.

Nhưng vài tháng trở lại đây, thương mại – lĩnh vực chiếm khoảng 1/5 GDP của Trung Quốc và cung cấp 180 triệu việc làm – đã bắt đầu xuất hiện những rạn nứt do suy thoái kinh tế toàn cầu.

Các chuyến hàng đi nước ngoài của Trung Quốc trong tháng 11/2022 đã giảm 8,7% so với cùng kỳ trước đó, tệ hơn nhiều so với mức giảm 0,3% của tháng 10. Kết quả này đánh dấu hiệu suất vận tải tồi tệ nhất kể từ tháng 2/2020 – thời điểm nền kinh tế Trung Quốc gần như rơi vào bế tắc khi dịch Covid-19 bùng phát đợt đầu tiên.

Nhiều quốc gia trên thế giới đang đối mặt với nguy cơ suy thoái kinh tế khi các nhà hoạch định chính sách liên tục tăng lãi suất để chống lạm phát tăng kỷ lục.

Các nhà phân tích tại Capital Economics cho rằng: “Xuất khẩu [của Trung Quốc] đã đảo ngược rất nhiều so với lúc bùng nổ trong thời kỳ đại dịch”. Họ cảnh báo, cuộc suy thoái toàn cầu sắp xảy ra sẽ khiến xuất khẩu của Trung giảm sâu hơn nữa trong vài quý tới.

]]>
Thấy gì từ mục tiêu về logistics đến năm 2025 https://doanhnhandautu.com/thay-gi-tu-muc-tieu-ve-logistics-den-nam-2025/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:16 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2579 Logistics là dịch vụ quan trọng của nền kinh tế với vai trò quan trọng về nhiều mặt, thể hiện ở mục tiêu phát triển đến năm 2025. Thấy gì từ mục tiêu này?]]>
Logistics là dịch vụ quan trọng của nền kinh tế với vai trò quan trọng về nhiều mặt, thể hiện ở mục tiêu phát triển đến năm 2025. Thấy gì từ mục tiêu này?
Thấy gì từ mục tiêu về logistics đến năm 2025

Mục tiêu đến năm 2025

Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày 22/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017) phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Theo quyết định này, đến năm 2025,

tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistics vào GDP đạt 5-6%; tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 15-20%; tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50-60%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16-20% GDP; xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.

Tỷ trọng logistics/GDP đạt 5-6% là tỷ trọng khá cao khi so với tỷ trọng tương ứng của các ngành kinh tế năm 2021. Tỷ trọng của logistics trong GDP chỉ đứng sau 4 ngành.

Cụ thể, tỷ trọng trong GDP của khai khoáng là 2,44%; sản xuất và phân phối điện 3,95%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải 0,90%; xây dựng 5,97%; vận tải, kho bãi 4,46%; dịch vụ lưu trú và ăn uống 1,73%; thông tin và truyền thông 3,61%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 4,73%; kinh doanh bất động sản 3,61%; chuyên môn, khoa học – công nghệ 2,26%, hành chính và dịch vụ hỗ trợ 0,95%; Đảng, tổ chức chính trị – xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc 2,18%; giáo dục, đào tạo 3,84%; y tế, trợ giúp xã hội 3,25%; nghệ thuật, vui chơi giải trí 0,56%; làm thuê hộ gia đình, sản xuất tự tiêu dùng của hộ gia định 0,13%; nông, lâm nghiệp – thủy sản 12,56%; công nghiệp chế biến, chế tạo 24,62%; thương nghiệp 9,34%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) 8,76%.

Tăng trưởng logistics đạt 15-20%. Đây là tốc độ tăng rất cao, cao gấp đôi, gấp ba tốc độ tăng tương ứng của cả nước theo kế hoạch 2021-2025 (6,5-7%) và tỷ trọng trong GDP của logistics vẫn đứng thứ hạng cao.

Tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50-60%. Một trong những hạn chế của dịch vụ là tính kiêm nhiệm còn cao, kể cả các cơ quan, doanh nghiệp. Mục tiêu này nhằm tăng tính chuyên nghiệp, tăng năng suất lao động.

Giảm chi phí logistics xuống tương đương 16-20% GDP. Đây là mức giảm rất lớn, nhằm tăng hiệu quả của bản thân dịch vụ logistics và giảm giá cả của các ngành khác của nền kinh tế.

Ngày 17/12/2022, Chính phủ đã có Nghị quyết số 163/NQ-CP về triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam.

Nhìn tổng quát, các mục tiêu đề ra đã thể hiện vai trò quan trọng của dịch vụ logistics và quyết tâm cao của Nhà nước đối với dịch vụ này.

Một số vấn đề đặt ra

Mục tiêu đặt ra phải được thực tế đo lường để đánh giá việc thực hiện, trên cơ sở đó có giải pháp chỉ đạo việc thực hiện mục tiêu. Tuy nhiên, do dịch vụ logistics là dịch vụ kết nối, gắn chặt với các ngành, lĩnh vực từ đầu vào đến đầu ra của sản xuất, lưu thông ở trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.

Chính vậy, rất khó tách bạch khi tính chỉ tiêu sản xuất như giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm. Cũng rất khó khi tính các chỉ tiêu có tính hệ thống của ngành như lao động (năng suất lao động), vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư, doanh nghiệp (và các chỉ tiêu có liên quan như lao động, vốn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn, doanh thu thuần, tổng thu nhập, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận), nộp ngân sách…

Về chỉ tiêu cụ thể, nếu so với mức hiện nay của các ngành, thì mục tiêu đề ra đến năm 2025 là rất cao. Do vậy, nếu không có quyết tâm rất cao, có giải pháp quyết liệt, thì rất khó thực hiện được.

]]>
HSBC: GDP tăng 8,02% nhưng không thể ngủ quên trên chiến thắng https://doanhnhandautu.com/hsbc-gdp-tang-802-nhung-khong-the-ngu-quen-tren-chien-thang/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:40 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2936 Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 25 năm. Tuy nhiên, 2023 sẽ là một năm thách thức. Rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng là những khó khăn trong thương mại đang gia tăng. ]]>
Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 25 năm. Tuy nhiên, 2023 sẽ là một năm thách thức. Rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng là những khó khăn trong thương mại đang gia tăng.

Khó khăn trong thương mại là rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng

Ba ngày trước thềm năm mới 2023, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á công bố số liệu năm 2022 với những con số ấn tượng cho một năm đầy thách thức. Kinh tế Việt Nam trong Quý 4 tăng trưởng 5,9% so với cùng kỳ năm trước (Bảng 2), hơi thấp so với mức kỳ vọng của HSBC là 6,2% nhưng cao hơn dự báo của thị trường là 4,6%. Kết quả này đưa tăng trưởng của cả năm 2022 lên 8,0%, gần như tương đương với dự báo của chúng tôi là 8,1%, đánh dấu mức tăng trưởng cao nhất của Việt Nam kể từ năm 1997. Việt Nam nhiều khả năng dễ dàng lại lọt vào nhóm các nước tăng trưởng vượt trội của châu Á lần nữa, có thể chỉ sau Malaysia (HSBC: 8,4%) theo dự báo của chúng tôi. Mặc dù vậy, Việt Nam không nên ngủ quên trên chiến thắng vì ẩn dưới con số tăng trưởng đẹp đẽ này là những rủi ro tiềm ẩn đối với tăng trưởng của năm 2023.

Việt Nam có một vài lợi thế trong nghịch cảnh bao gồm sự phục hồi ổn định của nhu cầu trong nước và có thể đón cú hích khi thị trường Trung Quốc mở cửa. Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng chính là những khó khăn trong thương mại.

Nhu cầu trong nước phục hồi ổn định thúc đẩy phát triển dịch vụ mạnh mẽ trong quý IV, tương tự quý III. Doanh thu bán lẻ tiếp tục tăng khoảng 13% so với cùng kỳ năm trước. Nhờ thị trường lao động được cải thiện, tiêu dùng cá nhân của Việt Nam đã lấy lại tốc độ như thời trước đại dịch là khoảng 7%. Mặc dù vậy, những dấu hiệu ban đầu đang cho thấy những yếu tố thuận lợi trong nước đang giảm dần với đà tăng trưởng của tháng 12 giảm nhẹ. Một phần nguyên nhân dẫn tới sự suy yếu này là do tốc độ phục hồi chậm của ngành du lịch.

Sự phục hồi của ngành du lịch Việt Nam đã và đang chậm so với các nước khác trong khu vực. Trong năm 2022, Việt Nam đón khoảng 3,6 triệu lượt khách, đạt 70% chỉ tiêu đặt ra từ đầu năm. Tuy nhiên, mức này chỉ bằng 20% so với năm 2019, thấp hơn mức 28% của Singapore (5 triệu lượt khách trong tháng 11) và mức 25% của Thái Lan (hơn 11 triệu lượt khách theo các quan chức). Mặc dù không quá phụ thuộc vào du lịch như Thái Lan, khối phân tích của HSBC cho rằng Việt Nam không thể xem nhẹ tầm quan trọng của ngành này đối với thị trường việc làm trong nước. Khoảng 25% lực lượng lao động làm việc trong các ngành liên quan đến ăn uống và lưu trú và đặc biệt, thị trường việc làm phi chính thức của Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ du lịch.

Trung Quốc mở cửa trở lại kể từ ngày 8/1 có thể là cú hích cần thiết cho du lịch Việt Nam. Cũng giống như Thái Lan, nguồn khách du lịch lớn nhất của Việt Nam chủ yếu đến từ Trung Quốc đại lục với tỷ trọng là 30%. Thêm nữa, Việt nam đang cân nhắc các biện pháp để giúp đạt được mục tiêu thu hút 8 triệu du khách. Ví dụ như các quan chức đang kêu gọi kéo dài thời gian miễn thị thực cho khách nước ngoài lên 30 ngày và triển khai thị thực điện tử (e-visa) cho công dân tất cả các nước. Hiện tại, Việt Nam mới chỉ miễn thị thực cho du khách đến từ 24 nước với thời hạn lưu trú 15 ngày, chủ yếu là các quốc gia thuộc tổ chức Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD – Organization for Economic Cooperation and Development) và ASEAN, trong khi Malaysia miễn thị thực cho 162 quốc gia, Philippines miễn thị thực cho 157 quốc gia và Thái Lan miễn thị thực cho 65 quốc gia.

Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng theo HSBC chính là những khó khăn trong thương mại. Sản lượng sản xuất chỉ tăng có 3% so với cùng kỳ năm trước là một bất ngờ nhỏ trong báo cáo về GDP quý IV. Tình hình sản xuất có phần ảm đạm của Việt Nam là hình ảnh phản chiếu của lĩnh vực bên ngoài đang yếu đi bởi Việt Nam đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi nhu cầu của nhiều nước châu Âu hay Mỹ. Xuất khẩu sụt giảm 14% trong tháng 12 so với cùng kỳ năm trước, sự suy yếu diễn ra trên diện rộng ở các ngành hàng chính, đặc biệt là điện tử.

Khó khăn trong thương mại là rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng
Xuất khẩu sụt giảm 14,0% trong tháng 12 so với cùng kỳ năm trước, sự suy yếu diễn ra trên diện rộng ở các ngành hàng chính, đặc biệt là điện tử 

“Điều này có thể được hiểu là Việt nam đang ở thế “đứng mũi chịu sào” bị ảnh hưởng từ chu kỳ công nghệ toàn cầu đang “hạ nhiệt” với bản chất hoạt động sản xuất hàng điện tử đòi hỏi nhập khẩu nhiều. Thật vậy, triển vọng sản xuất của Việt Nam đang bắt đầu nhìn thấy thách thức với bằng chứng là chỉ số PMI mới nhất tiếp tục lao dốc xuống 46,4 trong tháng 12, mức thấp nhất trong vòng 1,5 năm qua”, khối phân tích HSBC nhận định.

Dự báo VND nhiều khả năng sẽ hồi phục từ từ, lãi suất điều hành tăng thêm 1%

Tình hình xuất khẩu chậm lại và nhập khẩu năng lượng tăng cao kéo mức thặng dư thương mại thấp, chỉ đạt 4,1 tỷ USD (1% GDP) trong năm 2022. Dữ liệu cán cân thanh toán của cả năm chưa được công bố, nhưng HSBC dự báo mức thặng dư thương mại thấp này nhiều khả năng sẽ không bù đắp được cho thâm hụt trong thu nhập chính và dịch vụ.

Vì vậy, tổ chức này cho rằng Việt Nam nhiều khả năng sẽ chứng kiến thâm hụt nhẹ tài khoản vãng lai năm thứ hai liên tiếp, khả năng rơi vào khoảng 1,4% GDP, ảnh hưởng đến tốc độ phục hồi đồng VND. Đồng VND đã chịu áp lực giảm giá lớn trước đồng USD mạnh, khiến tài khoản vãng lai suy yếu và làm suy giảm lợi thế về chênh lệch lợi suất. Để bảo vệ đồng nội tệ, các nhà chức trách đã bán bớt ngoại tệ dự trữ, dự trữ ngoại tệ vốn đã giảm mạnh 20% tính tới quý III/2022 so với thời điểm đạt đỉnh vào cuối năm 2021. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá đồng USD gần đây cùng với thanh khoản USD được cải thiện đã giúp đồng VND bớt áp lực hơn một chút. Mặc dù vậy, HSBC cho rằng việc tăng giá đồng VND (tương ứng tỷ giá USD/VND giảm) nhiều khả năng sẽ là một quá trình từ từ từng bước một.

Trong khi lạm phát chính của năm đã tương đối thấp ở mức 3,2%, Việt Nam tiếp tục chứng kiến áp lực lạm phát mạnh lên. Tháng 12 là tháng thứ ba liên tiếp lạm phát vượt mức trần 4% của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam. Không chỉ lạm phát cơ bản tăng lên 5% so với cùng kỳ năm trước mà Việt Nam còn chứng kiến giá nguyên liệu thô tăng lên. Điều này có nghĩa là NHNN nhiều khả năng sẽ tiếp tục chu kỳ thắt chặt.

HSBC kỳ vọng NHNN thắt chặt tiền tệ chậm lại khi Fed được dự báo sẽ giảm tốc và biến động ngoại tệ được xoa dịu, chu kỳ tăng lãi suất sẽ còn tiếp tục. Tổ chức này dự báo NHNN sẽ nâng lãi suất  50 điểm cơ sở trong quý I/2023 và quý II/2023. Theo dự báo này, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng từ 6%  lên 7,% vào giữa năm 2023.

Đánh giá về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI vững vàng tiếp tục là mỏ neo vững chãi cho thương mại của Việt Nam mặc dù triển vọng ngắn hạ vẫn còn thách thức. Một nguyên nhân là những gã khổng lồ ngành công nghệ truyền thống như Samsung và LG đã công bố kế hoạch tiếp tục mở rộng với mức đầu tư trị giá 2 tỷ USD từ Samsung và 4 tỷ USD từ LG nhằm củng cố chuỗi cung ứng ở Việt Nam.

Apple được cho rằng sẽ bắt đầu sản xuất máy tính MacBooks ở Việt Nam từ giữa năm 2023. Quyết định này không hẳn gây ngạc nhiên vì nhà cung cấp Foxconn của Apple đã thuê 50,5ha đất ở Bắc Giang vào tháng 8 năm ngoái, dự kiến để làm dự án mới có tổng đầu tư trị giá 300 triệu USD. Tất cả những diễn biến này đều cho thấy Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn ở ASEAN đối với nhà đầu tư nước ngoài.

]]>
Quan chức Ngân hàng Trung ương Trung Quốc: Tăng trưởng sẽ sớm trở lại đường ray https://doanhnhandautu.com/quan-chuc-ngan-hang-trung-uong-trung-quoc-tang-truong-se-som-tro-lai-duong-ray/ Sat, 11 Feb 2023 10:31:18 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3225 Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ trở lại lộ trình "bình thường" khi Bắc Kinh cung cấp nhiều hỗ trợ tài chính hơn nhằm giúp các hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân phục hồi.]]>
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ trở lại lộ trình “bình thường” khi Bắc Kinh cung cấp nhiều hỗ trợ tài chính hơn nhằm giúp các hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân phục hồi.
Quang cảnh Bến Thượng Hải, quận Hoàng Phố, thành phố Thượng Hải (Trung Quốc) vào ngày 21/12/2022. Ảnh: AFP
Quang cảnh Bến Thượng Hải, quận Hoàng Phố, TP. Thượng Hải (Trung Quốc) vào ngày 21/12/2022. Ảnh: AFP

Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sẽ phục hồi nhanh chóng nhờ chính sách chống dịch Covid-19 tối ưu và các chính sách kinh tế tiếp tục phát huy tác dụng. Quan điểm này được ông Guo Shuqing, bí thư đảng ủy Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) nêu trong bài phỏng vấn được Nhân dân Nhật báo xuất bản ngày 8/1.

Hãng tin Bloomberg dẫn nội dung trả lời phỏng vấn của ông Guo cho rằng, chìa khóa cho sự phục hồi kinh tế Trung Quốc là chuyển tổng thu nhập hiện tại sang tiêu dùng và đầu tư ở mức cao nhất có thể.

Đại diện Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cam kết sẽ sử dụng các chính sách tài chính để cải thiện thu nhập của những người bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, giúp đáp ứng các nhu cầu cơ bản và kích thích tiêu dùng. Mặt khác, ông Guo cũng cho rằng, ngành tài chính Trung Quốc cần phát triển các sản phẩm khuyến khích mua nhà và ô tô.

Đại diện Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng tuyên bố sẽ đảm bảo chính sách tiền tệ có lợi hơn cho doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ tăng trưởng tín dụng hiệu quả và mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn của khối doanh nghiệp này, kể cả hỗ trợ nhiều hơn cho các thương vụ IPO và phát hành trái phiếu.

Theo ông Guo, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc sẽ tiếp tục biến động nhưng sẽ tiếp tục tăng giá trong trung và dài hạn. Trong khi đó, Bắc Kinh cần cảnh giác cao độ đối với nhập khẩu lạm phát, ngay cả khi giá cả trong nước vẫn ổn định.

Trước đó, trong khoảng thời gian từ ngày 7-9 tháng 12 năm 2022, chính phủ Trung Quốc đã công bố một loạt biện pháp làm thay đổi đáng kể chính sách chống dịch của nước này, từ chính sách chống dịch cứng rắn zero-covid sang sống chung với virus.

Với sự thay đổi sớm hơn dự đoán trên, Công ty phân tích kinh tế Economist Intelligence Unit (EIU) thuộc Tập đoàn Economist đã điều chỉnh nâng dự báo tăng trưởng GDP thực tế của Trung Quốc lên 5,2% vào năm 2023 (từ mức 4,7%) và 4,8% vào năm 2024 (từ mức 4,5%).

Kịch bản kinh tế Trung Quốc trong năm 2023 sẽ chứng kiến 6 tháng đầu năm tăng trưởng yếu hơn và tăng mạnh hơn vào nửa cuối năm, theo EIU.

Giống như các nền kinh tế châu Á khác đã dỡ bỏ chính sách chống dịch hà khắc, việc mở cửa trở lại sẽ không đưa đến kết quả tăng trưởng bứt tốc ngay lập tức, vì số ca nhiễm tăng lên khi mở cửa có thể làm gián đoạn chuỗi cung ứng và tiêu dùng. Tuy nhiên, sau một quý khó khăn, động lực kinh tế của Trung Quốc có thể sẽ được củng cố trong quý II/2023, trước khi phục hồi mạnh mẽ vào nửa cuối năm, khi tình hình sức khỏe cộng đồng được kiểm soát.

Chúng tôi cũng dự đoán nhu cầu toàn cầu đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc sẽ phục hồi vào nửa cuối năm 2023. Tác động chậm chạp của các chính sách hỗ trợ tăng trưởng (được công bố trong thời gian tới) sẽ củng cố hiệu suất kinh tế mạnh mẽ hơn vào năm 2024“, các nhà phân tích của EIU nhận định.

Mô hình tăng trưởng của Trung Quốc trong hai năm tới sẽ khác so với sự phục hồi sau đại dịch của các nền kinh tế lớn khác. Chẳng hạn, tại Mỹ, tiêu dùng cá nhân bùng nổ kéo dài nhờ các khoản tiết kiệm và các gói kích thích kinh tế của chính phủ đã hỗ trợ tăng trưởng mạnh mẽ. Còn Trung Quốc cũng sẽ chứng kiến sự phục hồi ban đầu trong tiêu dùng do nhu cầu bị dồn nén, nhưng sự phục hồi đó sẽ tương đối nhẹ do tác động tiêu cực của dịch covid-19 đến thu nhập cá nhân trong khi không có gói kích thích tập trung cho các hộ gia đình.

Tương tự như tiêu dùng, đầu tư tư nhân tại Trung Quốc cũng sẽ cần thời gian để phục hồi.

Các nhà phân tích của EIU kỳ vọng, Chính phủ Trung Quốc sẽ công bố các biện pháp tài khóa mở rộng thông qua bảo hiểm trái phiếu và mở rộng thâm hụt tài khóa; đồng thời bù đắp chi tiêu trong năm 2023, kích thích nền kinh tế và cấp kinh phí cho việc điều trị covid-19.

Các lĩnh vực đầu tiên được hưởng lợi từ việc Trung Quốc dỡ bở chính sách zero-Covid là chăm sóc sức khỏe và dược phẩm, tiếp đến là lĩnh vực tiêu dùng như kinh doanh dịch vụ ăn uống, vận tải và du lịch. Ngoài ra, bất động sản cũng sẽ là lĩnh vực được hưởng lợi từ các chính sách hỗ trợ và kỳ vọng thu nhập của người dân được cải thiện.

]]>
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 https://doanhnhandautu.com/tiep-tuc-day-manh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-den-nam-2030-tam-nhin-den-nam-2045/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:41 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3349 ]]>

]]>
Thành quả từ mục tiêu kép https://doanhnhandautu.com/thanh-qua-tu-muc-tieu-kep/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:40 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4050 Sau 2 năm liên tiếp suy giảm, thu nhập của người dân nói chung, người lao động làm công hưởng lương nói riêng trong năm 2022 đã tăng trở lại.]]>
Sau 2 năm liên tiếp suy giảm, thu nhập của người dân nói chung, người lao động làm công hưởng lương nói riêng trong năm 2022 đã tăng trở lại.
Thành quả từ mục tiêu kép

Đây là thành quả từ nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và cả nước nhằm thực hiện mục tiêu kép: vừa chống dịch, vừa duy trì, ổn định và phát triển kinh tế.

Năm 2021, Việt Nam rất tự hào khi vẫn còn là “thành trì” kiên cố trước đại dịch Covid -19, nhưng có một thực tế là thu nhập bình quân đầu người chỉ còn 4,19 triệu đồng/tháng, thu nhập của lao động làm công hưởng lương là 6,62 triệu đồng/tháng. Dù chỉ giảm nhẹ so với năm 2019, nhưng lần đầu tiên sau nhiều năm, thu nhập của người dân Việt Nam bị sụt giảm.

Năm 2022, Việt Nam một lần nữa tự hào khi vượt qua dịch bệnh, mở cửa dần hoạt động kinh tế, xã hội. Việt Nam hiện vẫn là một trong những nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao và là nền kinh tế hiếm hoi trên thế giới có GDP tăng trưởng dương 2 năm liền. Người dân – trung tâm của sự phát triển kinh tế, xã hội – đã được thụ hưởng từ thành quả tăng trưởng kinh tế nói trên.

Số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương trong năm 2022  đạt 7,5 triệu đồng/tháng, tăng 992.000 đồng; thu nhập bình quân đầu người đạt 4,6 triệu đồng/tháng, tăng 9,5% so với năm 2021. Như vậy, thu nhập của người dân đã cao hơn trước thời điểm xảy ra đại dịch (năm 2019).

Kết quả trên rất có ý nghĩa khi lạm phát năm 2022 chỉ tăng 3,15%, trong khi lạm phát trở thành nỗi ám ảnh tại nhiều nước trên thế giới, bởi khi lạm phát tăng cao thì thu nhập có tăng cũng không mang lại nhiều ý nghĩa.

Kết quả trên càng có ý nghĩa khi các chỉ số đo lường thị trường lao động (tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm, lực lượng lao động…) năm 2022 rất nhiều gam màu sáng. Bởi thu nhập tăng, nhưng thị trường lao động ảm đạm, thì mức tăng thu nhập chỉ là nhất thời, thiếu ổn định.

Với mức tăng trưởng kinh tế 8,02%, năm 2022, quy mô GDP của Việt Nam tương đương 409 tỷ USD, GDP bình quân đầu người tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD (9,5%) so với năm 2021. Điều đó cho thấy, cả quy mô của nền kinh tế, lẫn thu nhập của người dân Việt Nam, dù tính theo giá thực tế hay sức mua tương đương, đã vượt qua Philippines – quốc gia có trình độ kinh tế, quy mô dân số tương đương Việt Nam, cho dù Philippines đi trước nhiều thập kỷ trong phát triển kinh tế.

Rất tự hào khi Việt Nam đạt được kết quả phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao và cải thiện thu nhập, đời sống của người dân như hiện nay. Mặc dù vậy – như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thường xuyên nhắc nhở Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương – là tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn, không quá say sưa với những thành tích, thắng lợi, đừng ngủ quên trên vòng nguyệt quế, bởi đất nước đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

Khó khăn, thách thức đã hiển hiện ngay đầu năm mới 2023, khi theo thống kê sơ bộ, trong quý IV/2022 đã có trên 637.000 người (không kể hàng triệu lao động phi chính thức), tương đương 4% tổng số lao động trong doanh nghiệp bị cắt giảm giờ làm; tạm ngừng công việc, tạm hoãn hợp đồng do doanh nghiệp thiếu đơn hàng xuất khẩu, không ký được hợp đồng xuất khẩu mới. Cho dù rất nhiều doanh nghiệp nỗ lực bảo đảm cuộc sống, việc làm, lo Tết Quý Mão cho người lao động, song thực tế cho thấy, sức lực của doanh nghiệp có hạn, thách thức lại vô cùng lớn.

Để tập trung toàn lực cho phát triển kinh tế – xã hội, tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương tổng kết năm 2022 và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu cả hệ thống chính trị phải chủ động đối với mọi tình huống, đặc biệt là những khó khăn, thách thức mới phát sinh; phải quán triệt thật sâu sắc, tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước về phát triển nhanh và bền vững.

Thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 01 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội , Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh năm 2023, xác định rõ 06 quan điểm, trọng tâm chỉ đạo điều hành cùng 11 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Nghị quyết yêu cầu, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ động theo dõi sát diễn biến trong nước, quốc tế, nâng cao năng lực, tăng cường phân tích, đánh giá, dự báo để có giải pháp kịp thời, tổng thể, đồng bộ, tận dụng thời cơ, thuận lợi, giảm thiểu tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người dân…

Đây là sự chủ động ứng phó với mọi tình huống. Chỉ có những quyết sách đúng, đủ, kịp thời mới có thể thực hiện được mong ước và cũng là chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Năm nay nhất định đạt được nhiều thành tích và tiến bộ hơn năm 2022”, đặc biệt là tiếp tục cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân.

]]>
Điểm sáng kinh tế và triển vọng nâng hạng là động lực hút dòng tiền https://doanhnhandautu.com/diem-sang-kinh-te-va-trien-vong-nang-hang-la-dong-luc-hut-dong-tien/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:54 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4601 Cả nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn tăng trưởng cao trong ít nhất 5 năm tới. Nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ không bỏ qua cơ hội này]]>
Cả nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn tăng trưởng cao trong ít nhất 5 năm tới. Nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ không bỏ qua cơ hội này

Tăng trưởng EPS có thể về 1 con số trong 2023, trở lại 2 con số từ 2024

Việt Nam nằm trong nhóm các nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình khoảng 6,5%/năm vào giai đoạn trước dịch COVID-19. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2021-2025 ở mức 6,5%-7%/năm được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng dù đã bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 trong năm 2021, tuy nhiên, VinaCapital dự báo, hoàn toàn có thể vẫn được duy trì trong giai đoạn 2023-2025.

Tăng trưởng kinh tế cao sẽ tích cực cho hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong năm 2023, kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết có thể bị ảnh hưởng bởi tăng trưởng chậm lại của xuất khẩu, tiêu dùng và áp lực lãi suất vẫn còn cao. Dự báo tăng trưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) của chỉ số VN Index có thể về mức một con số.

Tuy nhiên, từ năm 2024, khi áp lực lạm phát không còn, các ngân hàng trung ương trên thế giới có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích kinh tế, đồng thời các khó khăn và thách thức trong nội tại của nền kinh tế Việt Nam đã được giải quyết, tăng trưởng EPS của thị trường chứng khoán nhiều khả năng sẽ quay trở lại mức hai con số. Đầu tư cơ sở hạ tầng vẫn là trọng tâm ưu tiên của Chính phủ trong nhiều năm tới và sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế trong dài hạn.

Vào tháng 7/2022, Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 86/NQ-CP về phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, có nội dung quan trọng là khẩn trương triển khai các biện pháp cần thiết để nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, Sở giao dịch chứng khoán và các công ty chứng khoán đang tiến hành chạy thử hệ thống giao dịch mới KRX. Đây là hệ thống có thể đáp ứng được các yêu cầu về triển khai sản phẩm mới, rút ngắn thời gian giao dịch, giúp thị trường chứng khoán Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về nâng hạng lên thị trường mới nổi.

Theo VinaCapital, điểm sáng về kinh tế của Việt Nam trong 3-5 năm tới cùng triển vọng về nâng hạng thị trường chứng khoán sẽ là động lực quan trọng để thu hút dòng tiền của nhà đầu tư cả trong lẫn ngoài nước. Quy mô của thị trường chứng khoán sẽ còn mở rộng nhờ vào thanh khoản tăng lên và vẫn còn nhiều doanh nghiệp có khả năng niêm yết mới trong những năm tới (cả doanh nghiệp tư nhân và cổ phần hóa hoặc thoái vốn doanh nghiệp nhà nước). 

Cả nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn tăng trưởng cao trong ít nhất 5 năm tới và các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ không bỏ qua cơ hội này, VinaCapital nhận định.

Sự hấp dẫn từ định giá P/E VN-Index thấp hơn 30% so với các thị trường mới nổi trong khu vực Asean

VinaCapital cho rằng, định giá hấp dẫn của thị trường chứng khoán. Vào thời điểm cuối năm 2022, chỉ số VN Index đang được giao dịch ở mức P/E cho năm 2023 khoảng 10 lần, thuộc vào vùng định giá rẻ nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Mức P/E này cũng thấp hơn khoảng 30% so với các thị trường mới nổi trong khu vực ASEAN, trong khi trong giai đoạn trước 2022, mức chiết khấu của thị trường Việt Nam trung bình chỉ khoảng 15%. Các nhà đầu tư nước ngoài đã thấy được sự hấp dẫn này và đã mua ròng khoảng 1,3 tỷ USD trong tháng 11 và 12/2022. 

Bên cạnh định giá hấp dẫn, VinaCapital cũng nêu ra các yếu tố dự báo sẽ tác động tích cực tới thị trường năm 2023, gồm lạm phát, lãi suất, tỷ giá, đầu tư công, việc Trung Quốc mở cửa trở lại.

Cụ thể, lạm phát toàn cầu nhiều khả năng đã qua đỉnh. Chỉ số hàng hóa toàn cầu của Bloomberg đã lập đỉnh vào tháng 6/2022 và đã giảm khoảng 16% vào thời điểm cuối năm 2022. Lạm phát của Mỹ cũng lập đỉnh 9,1% vào tháng 6/2022, từ đó bắt đầu giảm dần theo xu hướng tháng sau thấp hơn tháng trước.

Các ngân hàng trung ương sẽ bớt quyết liệt hơn trong chính sách thắt chặt tiền tệ: Trong năm 2022, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất 7 lần, từ mức 0%-0,25% lên mức 4,25%-4,5%. Dự báo Fed có thể sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong năm 2023 nhưng mức tăng sẽ ít hơn nhiều so với năm 2022 do áp lực về lạm phát đã giảm xuống. Về tác động đối với thị trường chứng khoán, việc tăng lãi suất trong năm 2023 đã ít nhiều được phản ánh vào giá cổ phiếu.

Áp lực về lãi suất và tỷ giá trong nước đã giảm đáng kể. Cụ thể lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã giảm về dưới 5,0% vào cuối năm 2022. Cũng trong tháng 12/2022, các tổ chức tín dụng đã thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tối đa 9,5% cho tất cả các kỳ hạn, trong khi trước đó, có một số ngân hàng nhỏ đã đẩy lãi suất huy động lên mức 11-12%. Với xu hướng đồng USD yếu đi kể từ tháng 9/2022 (chỉ số DXY giảm 9% kể từ tháng 9/2022 đến cuối năm 2022), áp lực về tỷ giá đã giảm đáng kể. Tỷ giá USD/VND đã giảm từ khoảng 24.900 đồng/USD trong tháng 11/2022 xuống còn khoảng 23.600 đồng/USD vào cuối năm 2022. Tiền đồng được kỳ vọng sẽ được tiếp tục hỗ trợ bởi dòng vốn từ đầu tư nước ngoài và thặng dư thương mại của Việt Nam.

Bên cạnh đó, đầu tư công được đẩy mạnh trong năm 2023. Quốc hội đã thông qua kế hoạch đầu tư công năm 2023 với tổng vốn trên 700.000 tỉ đồng, tăng khoảng 25% so với kế hoạch năm 2022 và khoảng 61% so với số ước thực hiện năm 2022. Chính phủ đang rất quyết liệt trong việc đẩy nhanh tiến độ các dự án cơ sở hạ tầng. Đây là một động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế năm 2023.

Thêm vào đó, việc việc Trung Quốc chấm dứt chính sách zero-Covid và mở cửa trở lại nền kinh tế sẽ tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực du lịch. Vào giai đoạn trước dịch COVID-19, khách Trung Quốc chiếm khoảng gần 1/3 khách quốc tế đến Việt Nam. Ngoài ra, việc Trung Quốc mở cửa trở lại nền kinh tế sẽ giúp giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời sẽ thúc đẩy xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc, nhất là đối với các sản phẩm nông nghiệp.

Dù vậy, VinaCapital đánh giá, năm 2023, nhiều sự kiện tiêu cực đã được phản ánh vào giá cổ phiếu, một số yếu tố đang trở nên tốt lên, đồng thời xuất hiện những yếu tố tích cực mới cho năm 2023. Định giá của thị trường chứng khoán đang ở vùng thấp trong 10 năm trở lại đây, hấp dẫn cho đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, vẫn còn một số thách thức, trở ngại cho thị trường chứng khoán trong ngắn hạn.

]]>
Đánh giá GRDP bình quân đầu người của các địa phương https://doanhnhandautu.com/danh-gia-grdp-binh-quan-dau-nguoi-cua-cac-dia-phuong/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:38 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5978 Theo ước tính sơ bộ, GDP bình quân đầu người của cả nước năm 2022 đạt 4.110 USD. Trong đó, chỉ có 13 địa phương có GRDP lớn hơn mức bình quân cả nước.]]>
Theo ước tính sơ bộ, GDP bình quân đầu người của cả nước năm 2022 đạt 4.110 USD. Trong đó, chỉ có 13 địa phương có GRDP lớn hơn mức bình quân cả nước.

Có thể chia các địa bàn trong cả nước theo 4 mức GRDP bình quân đầu người.

Nhóm cao có mức từ 4.000 USD trở lên, gồm 13 tỉnh/thành phố. Nhóm này có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký lũy kế của các dự án còn hiệu lực đạt cao. TP.HCM đứng thứ nhất với 55,12 tỷ USD. Tiếp đến là Bình Dương với 39,74 tỷ USD; Hà Nội 38,66 tỷ USD; Đồng Nai 35,08 tỷ USD; Bà Rịa – Vũng Tàu 33,34 tỷ USD; Hải Phòng 25,54 tỷ USD; Bắc Ninh 24,67 tỷ USD; Vĩnh Phúc 6,76 tỷ USD; Quảng Ninh 10,13 tỷ USD; Thái Nguyên 11,38 tỷ USD; Đà Nẵng 3,93 tỷ USD; Hưng Yên 6,80 tỷ USD…

Các địa phương này có cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng chuyển từ những ngành có năng suất lao động thấp sang ngành có năng suất lao động cao…

Đây là nhóm có kim ngạch xuất khẩu lớn trong năm 2022. TP.HCM đứng đầu với 47,55 tỷ USD. Tiếp đến là Bắc Ninh (45,06 tỷ USD), Bình Dương (34,33 tỷ USD), Đồng Nai (24,6 tỷ USD), Hải Phòng (24,96 tỷ USD), Hà Nội (17,13 tỷ USD), Vĩnh Phúc (8,71 tỷ USD), Bà Rịa – Vũng Tàu (6,10 tỷ USD), Quảng Ninh (4,13 tỷ USD), Thái Nguyên (29,88 tỷ USD), Đà Nẵng (2,11 tỷ USD), Hưng Yên (5,3 tỷ USD)…

Tuy nhiên, trong nhóm cao trên không có thành phố trực thuộc Trung ương là Cần Thơ; không có 2 địa phương nằm trong dự kiến nâng lên thành phố trực thuộc Trung ương là Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế. Trong nhóm này, Bà Rịa – Vũng Tàu và Quảng Ngãi lớn chủ yếu nhờ khai thác dầu mỏ và chế biến xăng dầu.

Đánh giá GRDP bình quân đầu người của các địa phương

Nhóm trung bình cao có mức từ 3 tỷ USD đến dưới 4 tỷ USD, gồm 17 tỉnh, thành phố đứng từ thứ 14 đến 30.

Đây là những địa bàn có lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn, như Long An (13,06 tỷ USD), Hà Nam (5,42 tỷ USD), Hải Dương (8,89 tỷ USD), Tây Ninh (9,20 tỷ USD), Bình Phước (3,73 tỷ USD), Bắc Giang (10 tỷ USD), Bình Thuận (2,82 tỷ USD), Khánh Hòa (4,39 tỷ USD), Quảng Nam (6,06 tỷ USD).

Đây cũng là những địa bàn có chuyển dịch khá về cơ cấu kinh tế.

Nhiều địa bàn trong nhóm này đạt kim ngạch xuất khẩu hàng hóa khá trong năm 2022, như Long An (7,04 tỷ USD), Lào Cai (1,02 tỷ USD), Hà Nam (4,03 tỷ USD), Hải Dương (9,98 tỷ USD), Tây Ninh (7,59 tỷ USD), Cần Thơ (1,72 tỷ USD), Bình Phước (4,16 tỷ USD), Bắc Giang (22,63 tỷ USD)…

Tuy nhiên, một số địa bàn trong nhóm này chuyển dịch cơ cấu còn khó khăn, kim ngạch xuất khẩu nhỏ.

Nhóm trung bình thấp có mức từ 2.000 USD đến dưới 3.000 USD/người, gồm 17 tỉnh/thành phố. Nhóm này có lượng vốn đầu tư nước ngoài khá như Thanh Hóa (14,72 tỷ USD), Kiên Giang (4,81 tỷ USD), Quảng Trị (2,73 tỷ USD), Bạc Liêu (4,55 tỷ USD), Phú Thọ (3,51 tỷ USD), Thừa Thiên Huế (4,24 tỷ USD)..

Có một số địa bàn có kim ngạch xuất khẩu khá, như Thanh Hóa (5,36 tỷ USD), Tiền Giang (4,67 tỷ USD), Đồng Tháp (2,07 tỷ USD), Thái Bình (2,72 tỷ USD), Đắk Lắk (1,59 tỷ USD), Sóc Trăng (1,52 tỷ USD), Nghệ An (1,80 tỷ USD), Nam Định (2,87 tỷ USD)… Tuy nhiên, nhiều tỉnh, thành phố trong nhóm này đạt mức thấp.

Nhóm thấp có mức dưới 2.000 USD/người, gồm 4 tỉnh miền núi phía Bắc. Đây là những địa bàn khó khăn về nhiều mặt, nhất là giao thông, đầu tư, xuất khẩu, thu ngân sách…

]]>
BOE: Nền kinh tế Anh đối mặt những năm tăng trưởng tồi tệ nhất https://doanhnhandautu.com/boe-nen-kinh-te-anh-doi-mat-nhung-nam-tang-truong-toi-te-nhat/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:20 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6229 Nền kinh tế Anh sẽ đối mặt với những năm tăng trưởng tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng (Great Depression) những năm 1930, Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) cảnh báo.]]>
Nền kinh tế Anh sẽ đối mặt với những năm tăng trưởng tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng (Great Depression) những năm 1930, Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) cảnh báo.
Vương quốc Anh đang đối diện những năm tăng trưởng tồi tệ nhất kể từ Đại suy thoái 1938. Nguồn: Số liệu được Bloomberg tổng hợp từ Cơ quan Thống kê Vương quốc Anh (ONS) và ngân hàng Trung ương Anh (BOE)
Vương quốc Anh đối diện những năm tăng trưởng tồi tệ nhất kể từ Đại suy thoái những năm 1930. Nguồn: Số liệu được Bloomberg tổng hợp từ Cơ quan Thống kê Vương quốc Anh (ONS) và Ngân hàng Trung ương Anh (BOE)

Tăng trưởng không quá 0,7%/năm

Nền kinh tế Anh đang trong tình trạng suy thoái và lực lượng lao động của quốc gia này đang bị thu hẹp đồng nghĩa với việc nền kinh tế có rất ít cơ hội để tăng tốc khi suy thoái qua đi.

Nhóm chuyên gia của Tổ chức tư vấn độc lập Resolution Foundation (London) nhận định Vương quốc Anh đang ở giữa giai đoạn tăng trưởng tồi tệ nhất trong 20 năm kể từ thời kỳ Đại khủng hoảng năm 1938, nếu các dự báo của Ngân hàng Trung ương Anh là chính xác.

Ngân hàng Trung ương Anh cho biết nền kinh tế Anh có thể tăng trưởng không quá 0,7%/năm – bằng 1/4 tốc độ tăng trưởng trong thập kỷ trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tăng trưởng năng suất đã trở nên “ốm yếu” kể từ sau khủng hoảng trong khi Ngân hàng Trung ương Anh nhận thấy khả năng cải thiện vấn đề này trong trung hạn là rất thấp.

Biến cố lớn trên thị trường lao động Anh là việc hàng trăm nghìn người lao động rời bỏ thị trường kể từ khi đại dịch Covid-19 xuất hiện, đặc biệt là những lao động lớn tuổi. Nguyên nhân khiến nhiều người lao động rời bỏ thị trường là do tình trạng dịch bệnh mệt mỏi kéo dài và thậm chí họ có thể sẽ không quay trở lại thị trường lao động, theo nhận định của Ngân hàng Trung ương Anh.

Suy thoái ngắn và nông hơn

Đối chiếu diễn biến lịch sử, suy thoái mà Ngân hàng Trung ương Anh cảnh báo là ở mức nông. Dự báo mà cơ quan này đưa ra là sản lượng kinh tế Anh sẽ sụt giảm dưới mức 1% trong 5 quý, trong khi đó các cuộc suy thoái năm 1980 và 2008 không kéo dài, nhưng mỗi cuộc suy thoái gây thiệt hại trung bình khoảng 5% GDP.

Thay vì phục hồi vào năm 2024, Ngân hàng Trung ương Anh dự báo nền kinh tế vào đầu năm 2026 vẫn trong tình trạng đình trệ ở mức nhẹ hơn so với trước đại dịch Covid-19 và số người thất nghiệp tăng thêm 500.000 người.

Đó là tin xấu đối với Thủ tướng Rishi Sunak khi mà đảng Bảo thủ của ông đã thua xa so với đảng Lao động đối lập trong cuộc thăm dò dư luận gần đây. Việc khắc phục các vấn đề cơ cấu cản trở nền kinh tế Anh sẽ cần thêm thời gian, chứ không phải hai năm còn lại trước khi phải tổ chức tổng tuyển cử.

Dự báo của Ngân hàng Trung ương Anh được đánh giá là bi quan hơn Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Đầu tuần trước, Quỹ Tiền tệ Quốc tế cảnh báo nền kinh tế Anh sẽ đối mặt với hai năm ảm đạm nhất so với bất kỳ quốc gia công nghiệp lớn nào, bao gồm cả Nga – nền kinh tế đang hứng chịu nhiều đòn trừng phạt của phương Tây. Dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế về tăng trưởng của nền kinh tế Anh vào năm 2024 cao hơn một chút so với năm 2022.

Đối với Brexit, Ngân hàng Trung ương Anh luôn cho rằng nước này sẽ phải trả giá về mặt kinh tế khi rời khỏi Liên minh châu Âu (EU). Và thiệt hại do Brexit sẽ đến sớm hơn so với dự kiến.

Đầu tư kinh doanh của Anh được dự báo sẽ tiếp tục giảm và phân tích mới nhất của Ngân hàng Trung ương nước này cho thấy giao dịch thương mại với EU đã suy giảm nhiều hơn so với số liệu chính thức.

Hậu Brexit, các rào cản thương mại được thiết lập kể từ tháng 1/2021, kim ngạch thương mại của Vương Quốc Anh đã giảm 7%, theo dữ liệu chính thức. Tuy nhiên, Ngân hàng Trung ương Anh cho rằng mức giảm sẽ tiệm cận 14% sau khi các quy định điều chỉnh đối với vấn đề dữ liệu được thực hiện, chẳng hạn như tờ khai hải quan.

Phát biểu tại cuộc họp báo tuần trước, Phó thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh, ông Ben Broadbent, khẳng định: “Chúng tôi không thay đổi đánh giá của mình về các tác động dài hạn, nhưng chúng tôi đã cải thiện một vài trong số chúng”. “Chúng tôi nghĩ có lẽ chúng (các tác động – BTV) sẽ xảy ra nhanh hơn chúng tôi dự kiến ban đầu”, đại diện Ngân hàng Trung ương Anh nói thêm.

]]>