#EVFTA – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:29:45 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #EVFTA – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Việt Nam vẫn trong tầm ngắm đầu tư mở rộng của doanh nghiệp châu Âu https://doanhnhandautu.com/viet-nam-van-trong-tam-ngam-dau-tu-mo-rong-cua-doanh-nghiep-chau-au/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:40 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4048 Việt Nam vẫn nằm trong tầm ngắm đầu tư mở rộng quy mô sản xuất đối với các doanh nghiệp châu Âu, với trợ lực kinh doanh đáng kể là EVFTA.]]>
Việt Nam vẫn nằm trong tầm ngắm đầu tư mở rộng quy mô sản xuất đối với các doanh nghiệp châu Âu, với trợ lực kinh doanh đáng kể là EVFTA.
Việt Nam vẫn nằm trong tầm ngắm mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp châu Âu.
Việt Nam vẫn nằm trong tầm ngắm mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp châu Âu.

Kết quả khảo sát mới nhất của Chỉ số Môi trường Kinh doanh (BCI) với hơn 1.300 doanh nghiệp do Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) công bố, được sản xuất bởi YouGov Decision Lab tiếp tục ghi nhận, Việt Nam vẫn là trong tầm ngắm mở rộng đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp châu Âu, với động lực đáng kể từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đang thực thi.

Báo cáo cho rằng, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng 5,92% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý 4/2022 và 8,02% trong cả năm, nhưng dữ liệu này được đưa ra trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục biến động do nhiều yếu tố bao gồm suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu, lãi suất tăng vọt, lạm phát kéo dài và niềm tin của người tiêu dùng bị tổn hại.

Với chỉ 27% số người được hỏi dự đoán sự ổn định hoặc cải thiện kinh tế cho quý 1/2023, kết quả BCI cũng cho thấy sự lạc quan đã giảm sút. Dự đoán cho quý trước là 42%, đây là mức giảm 15 điểm. Trong quý vừa qua, số người dự đoán suy thoái kinh tế cũng tăng gấp đôi.

41% số người được hỏi cho biết công ty của họ đang chuyển hoạt động từ Trung Quốc sang Việt Nam, tăng từ 13% trong quý 3. Ngoài ra, khoảng 35% số người được hỏi cho rằng Việt Nam thuộc top 5 điểm đến đầu tư toàn cầu hàng đầu, với 12% cho rằng Việt Nam là điểm đầu tư quốc tế hàng đầu của công ty họ.

Tuy nhiên, có ba rào cản về pháp lý lớn nhất đối với các công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được xác định là: Thiếu rõ ràng về các quy tắc và quy định (51%); khó khăn hành chính (41%); khó khăn về thị thực và giấy phép lao động (30%).

Bất chấp những khó khăn này, 58% số người được hỏi về BCI hài lòng với sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách đối với nhu cầu kinh doanh khi thiết lập các chính sách liên quan.

Đề xuất để cải thiện năng lực thu hút FDI, giảm bớt khó khăn thủ tục hành chính vẫn giữ vị trí đầu bảng. Yếu tố này vẫn giữ nguyên vị trí khi câu hỏi này lần đầu tiên được đưa ra với những người trả lời BCI vào quý 2/2022. Trong khi đó, vấn đề giảm khó khăn về thị thực cho các chuyên gia nước ngoài ngày càng được đề xuất nhiều hơn, tăng 8% từ quý 3 lên quý 4.

Chủ tịch EuroCham ông Alain Cany cho biết, đầu tư trực tiếp nước ngoài từ châu Âu và trên toàn thế giới vẫn ở mức cao và tiếp tục tăng, đặc biệt là trong các ngành sản xuất và công nghiệp xanh của Việt Nam. Nguồn vốn FDI này, nền tảng kinh tế vững chắc và cam kết bền vững của Việt Nam, Việt Nam vẫn là một trong những điểm đến đầu tư hàng đầu trên thế giới. Nhờ đó, cộng đồng doanh nghiệp châu Âu vẫn tin tưởng vào thị trường Việt Nam.

Theo khảo sát, 63% người được hỏi tin rằng họ có đủ hiểu biết về EVFTA. Hơn nữa, gần một nửa số người được hỏi cho rằng EVFTA có liên quan hoặc rất liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ.

Đặc biệt. các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là EVFTA có tác động tích cực đến sự phát triển của doanh nghiệp, sức khỏe tài chính của họ thông qua cắt giảm thuế quan và sức mạnh của chuỗi cung ứng.

Đánh giá những lợi ích mà EVFTA đã mang lại, nhiều doanh nghiệp EU cho biết hiệp định đã giúp tiết kiệm chi phí nguyên liệu do được miễn thuế nhập khẩu; khách hàng được hưởng lợi từ việc giảm thuế nên có xu hướng đặt hàng tại Việt Nam; các nhà đầu tư sản xuất có thể bắt đầu hoạt động tại Việt Nam dễ dàng hơn…

Tuy nhiên, doanh nghiệp còn lo ngại về thủ tục hành chính của EVFTA, sự thiếu hiểu biết về hiệp định và các rào cản kỹ thuật đối với thương mại.

Thương mại Việt Nam – EU tiếp tục khởi sắc mạnh mẽ trong năm 2022 với tổng kim gạch 62,3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang EU đạt 47,1 tỷ USD, tăng 17,5% so với năm 2021 và nhập từ EU 15,2 tỷ USD hàng hóa, bằng 90,2% so với năm ngoái.

EVFTA cũng được đánh giá là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được các doanh nghiệp xuất khẩu nắm bắt nhanh, tận dụng tốt để thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng thị trường, tăng tận dụng ưu đãi thuế quan.

Tính đến tháng 8/2022, hiện có 25 quốc gia thuộc EU27 tham gia đầu tư vào Việt Nam, với tổng số dự án là 2.378 dự án với tổng giá trị vốn đăng ký là 27,59 tỷ USD.

Các dự án FDI của EU vào Việt Nam tập trung chủ yếu ở lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo. Các doanh nghiệp EU đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân vào Việt Nam. Trong đó, 3 lĩnh vực được quan tâm đầu tư nhiều chính là: Công nghiệp chế biến chế tạo; sản xuất phân phối điện và kinh doanh bất động sản.

Gần đây, các doanh nghiệp EU có xu hướng quan tâm tới các ngành dịch vụ như logistics, bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ, năng lượng sạch, công nghiệp phụ trợ, chế biến thực phẩm, nông nghiệp công nghệ cao…

]]>
Xuất khẩu 28 tỷ USD, da giày, túi xách tiến mạnh sang các thị trường FTA https://doanhnhandautu.com/xuat-khau-28-ty-usd-da-giay-tui-xach-tien-manh-sang-cac-thi-truong-fta/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:57 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4565 Năm 2022, ngành da giày, túi xách tạo nên một kỷ lục mới khi mang về kim ngạch xuất khẩu 28 tỷ USD, tăng hơn 6,2 tỷ USD về giá trị tuyệt đối so với năm 2021.]]>
Năm 2022, ngành da giày, túi xách tạo nên một kỷ lục mới khi mang về kim ngạch xuất khẩu 28 tỷ USD, tăng hơn 6,2 tỷ USD về giá trị tuyệt đối so với năm 2021.
Doanh thu từ xuất khẩu giày dép, túi xách năm 2022 đạt 28 tỷ USD, tăng hơn 6 tỷ USD so với năm ngoái.
Doanh thu từ xuất khẩu giày dép, túi xách năm 2022 đạt 28 tỷ USD, tăng hơn 6 tỷ USD so với năm ngoái.

Sau năm 2021 tăng trưởng thấp do tác động nặng nề của đại dịch đổ ập vào trung tâm sản xuất lớn của ngành tại TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai…, năm 2022, ngành da giày, túi xách đã lập kỷ lục với kết quả xuất khẩu hơn 28 tỷ USD, cao hơn hàng tỷ USD so với mục tiêu đề ra từ đầu năm.

Trong đó, kim ngạch xuất khẩu giày dép đạt 23,932 tỷ USD, tăng 34,8% còn túi xách, vali, ô dù đạt xấp xỉ 4,1 tỷ USD, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm trước. 

So sánh về giá trị tuyệt đối thì xuất khẩu giày dép các loại tăng thêm gần 6,2 tỷ USD so với năm ngoái (mức thực hiện năm ngoái chỉ 17,75 tỷ USD), còn túi xách, vali, ô dù tăng thêm hơn 1 tỷ USD (năm ngoái, mặt hàng này chỉ đạt 3,022 tỷ USD).

Nhìn lại kết quả sản xuất, kinh doanh của ngành năm vừa qua, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Da giày – Túi xách Việt Nam cho hay, 3 quý đầu năm 2022 xuất khẩu toàn ngành tăng tốc mạnh mẽ,  nhưng từ quý IV/2022 tình hình thị trường chuyển biến xấu, đơn hàng xuất khẩu sụt giảm, nhiều doanh nghiệp thậm chí phải cho lao động luân phiên nghỉ việc.

Dù vậy, kim ngạch xuất khẩu của ngành sang các khu vực thị trường vẫn tăng trưởng tốt: Mạnh nhất là Nam Mỹ, 11 tháng năm 2022 tăng 50,5% và liên tục tăng tại các khu vực khác như Bắc Mỹ 39,1%, châu Âu 47,5%, châu Á 28,4%, châu Đại Dương 39,4%.

Năm qua, Mỹ là thị trường nhập khẩu da giày lớn nhất của Việt Nam, đạt 10,722 tỷ USD, tăng 37,3% so với 11 tháng năm 2021; thị trường Trung Quốc đứng thứ 2 đạt 1,659 tỷ USD, tăng 8,6%; Bỉ là thị trường đứng thứ 3 với 1,613 tỷ USD, tăng 51,0%.

Không chỉ lập kỷ lục về tăng trưởng cao, sản phẩm giày dép, túi xách đã tiến mạnh sang các thị trường có Hiệp định thương mại tự do (FTA), nhờ đó, tăng tận dụng ưu đãi thuế quan.

Trong số các nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu, giày dép là ngành có tỷ lệ kim ngạch xuất đi EU được hưởng ưu đãi thuế quan cao nhất. Theo Lefaso, EVFTA góp phần rất tốt trong thành tích xuất khẩu của ngành da giày nhìn ở cả con số tăng trưởng, gia tăng thị phần và hưởng ưu đãi.

Nếu trước khi EVFTA có hiệu lực, tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường EU chiếm vào khoảng 22 – 23%, nhưng sau 2 năm thực thi EVFTA đã tăng lên 26%. Các thị trường có FTA như CPTPP, UKVFTA, VKFTA…đều ghi nhận mức tăng trưởng 2 con số trong năm qua.

Hiện lạm phát toàn cầu, đặc biệt ở Mỹ, EU khiến các đơn hàng của ngành da giày sụt giảm, khó khăn này được dự báo sẽ kéo dài đến quý II/2023. Thực tế này sẽ gây cản trở cho quá trình tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu của ngành.

Trong bối cảnh một số thị trường xuất khẩu lớn bị thu hẹp, nhu cầu giảm, các doanh nghiệp sản xuất tiếp tục phân tích thông tin thị trường để lên kế hoạch sản xuất, kinh doanh linh hoạt với thực tế đơn hàng. Các doanh nghiệp đang hy vọng khó khăn sẽ kéo dài cùng lắm đến giữa năm, để sản xuất, xuất khẩu tiếp tục tăng tốc.

Với lợi thế về thu hút nguồn vốn FDI vào sản xuất trong hơn thập kỷ qua, ngành da giày Việt Nam vẫn là địa chỉ cung ứng giày dép tin cậy cho các Tập đoàn, doanh nghiệp toàn cầu.

Hiện, Việt Nam là nhà sản xuất giày dép lớn thứ ba ở châu Á, và thứ tư trên thế giới. Sản lượng xuất khẩu giày dép của Việt Nam chỉ đứng sau thị trườngTrung Quốc, hàng năm xuất khẩu hơn 1 tỷ đôi giày các loại sang nhiều thị trường trên thế giới, trong đó nhiều hãng giày lớn như Nike, Adidas cho biết tiếp tục tính toán để mở rộng sản xuất tại Việt Nam.

Tập đoàn Adidas đã có những kết quả kinh doanh hết sức tích cực trong năm 2022 và Việt Nam tiếp tục là địa bàn chiến lược của Adidas. Việt Nam là nguồn cung ứng quan trọng nhất cho Adidas. 

Việt Nam cũng là địa chỉ sản xuất lớn của Tập đoàn Nike (Mỹ), hiện nay, Nike sản xuất khoảng 600 triệu đôi giày mỗi năm và 50% trong số đó được sản xuất tại Việt Nam, 50% nguyên liệu cho chuỗi cung ứng toàn cầu của Nike cũng từ Việt Nam .


]]>
Cá ngừ lần đầu tiên đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD https://doanhnhandautu.com/ca-ngu-lan-dau-tien-dat-kim-ngach-xuat-khau-1-ty-usd/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:53 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4652 Năm 2022, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam cán đích 1 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2021, chính thức gia nhập câu lạc bộ xuất khẩu tỷ USD.]]>
Năm 2022, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam cán đích 1 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2021, chính thức gia nhập câu lạc bộ xuất khẩu tỷ USD.
Kết thúc năm 2022, Lần đầu tiên cá ngừ trở thành ngành hàng giá trị tỷ USD.
Kết thúc năm 2022, lần đầu tiên cá ngừ trở thành ngành hàng xuất khẩu giá trị tỷ USD.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), tính cả năm 2022, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam cán đích 1 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2021. Đây cũng là lần đầu tiên ngành hàng cá ngừ đạt giá trị xuất khẩu tỷ USD.

Kết quả này đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu 11 tỷ USD của ngành thủy sản trong năm 2022.

Các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam đã xuất khẩu sang 99 thị trường trên thế giới. Trong số đó, Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), các nước trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Israel, Thái Lan, Saudi Arabia, Nga, Philippines và Ai Cập là các thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam, chiếm 92% tổng giá trị xuất khẩu.

Cơ cấu thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam năm 2022.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam năm 2022.

Đáng chú ý, trong khối thị trường CPTPP, xuất khẩu sang Nhật Bản đã tăng trưởng cao liên tục trong qúy cuối năm 2022.

Riêng tháng 12, xuất khẩu cá ngừ sang Nhật Bản tăng tới 131% so với cùng kỳ, góp phần đưa cá ngừ của Việt Nam sang khối thị trường CPTPP đạt gần 136 triệu USD, tăng 48% so với năm 2021.

Lũy kế cả năm 2022, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang khối thị trường CPTPP đạt gần 136 triệu USD, tăng 48% so vớinăm 2021.

Trong khối EU, Đức, Tây Ban Nha và Bỉ là 3 thị trường nhập khẩu nhiều nhất cá ngừ của Việt Nam trong khối EU năm qua. Riêng trong tháng 12-2022, xuất khẩu cá ngừ sang Đức và Tây Ban Nha đang tăng “phi mã” ở mức 3 con số, lần lượt là 161% và 117%.

Việc khởi động lại các hạn ngạch ưu đãi thuế quan theo thỏa thuận trong Hiệp định EVFTA trong những tháng đầu năm 2022 đã thúc đẩy xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này. Giá trị xuất khẩu cá ngừ sang EU đã tăng 29% trong tháng 12/2022, đạt gần 15 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu sang khối thị trường này trong cả năm 2022 lên gần 166 triệu USD, tăng 15% so với năm 2021.

Đối mặt với lạm phát, nhiều thị trường có sự sụt giảm nhập khẩu cá ngừ đáng kể. Điển hình như tại thị trường Mỹ, sau khi sụt giảm trong tháng 11, xuất khẩu sang thị trường này tiếp tục giảm 38% trong tháng 12/2022. Tuy nhiên, tính lũy kế cả năm 2022, xuất khẩu cá ngừ sang Mỹ vẫn tăng 44%, đạt gần 487 triệu USD.

Vasep dự báo, dưới tác động của lạm phát, nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU giảm sức mua, đơn hàng sụt giảm, xuất khẩu cá ngừ trong quí 1/2023 sẽ không thể giữ được kết quả tích cực như năm 2022 và thị trường có thể sẽ hồi phục vào nửa cuối năm 2023.

Tuy nhiên, với 15 FTA đang thực thi, các hiệp định thương mại tự do này tiếp tục là động lực thúc đẩy xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam.

]]>
Việt Nam – địa điểm đầu tư lý tưởng của Đức tại châu Á https://doanhnhandautu.com/viet-nam-dia-diem-dau-tu-ly-tuong-cua-duc-tai-chau-a/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:49 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4715 Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Đức thời gian qua tiếp tục phát triển tích cực trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam hiện là địa điểm đầu tư lý tưởng của Đức tại châu Á, với nhiều cơ hội to lớn trước mắt.]]>
Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Đức thời gian qua tiếp tục phát triển tích cực trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam hiện là địa điểm đầu tư lý tưởng của Đức tại châu Á, với nhiều cơ hội to lớn trước mắt.
Việt Nam – địa điểm đầu tư lý tưởng của Đức tại châu Á
Ông Marko Walde, Trưởng đại diện Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam (AHK Việt Nam)

Kể từ khi Cộng hòa Liên bang Đức và Việt Nam nâng cấp quan hệ song phương lên đối tác chiến lược vào năm 2011, quan hệ hợp tác giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có phát triển kinh tế.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/12/2022, Đức có 441 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 2,37 USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến – chế tạo (52,1%) và năng lượng (27,8%). Hiện có khoảng 500 doanh nghiệp Đức đang hoạt động tại Việt Nam, tạo ra gần 50.000 việc làm, qua đó tiếp tục có những đóng góp tích cực cho quan hệ kinh tế song phương.

Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam cũng trở thành một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Đức tại Đông Nam Á. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) cùng với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được coi là các FTA thế hệ mới với mức độ tự do hóa thương mại và đầu tư cao, qua đó thúc đẩy tăng trưởng đột phá trong quan hệ thương mại của hai nước. EVFTA loại bỏ hơn 99% thuế quan đối với hàng hóa giao dịch giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam.

Trong Báo cáo Triển vọng Kinh doanh Thế giới AHK 2022 (AHK World Business Outlook 2022) của chúng tôi, 73% các công ty Đức được khảo sát tại Việt Nam cho biết, việc thực thi EVFTA giúp tăng khả năng cạnh tranh của các công ty này tại Việt Nam. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào về tỷ lệ tận dụng EVFTA của cộng đồng doanh nghiệp Đức, nhưng phản hồi khá tích cực. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với Đức đã tăng 25%, lên 14,8 tỷ USD tính đến cuối tháng 10/2022 sau khi EVFTA có hiệu lực.

Với việc Việt Nam tham gia các FTA, đặc biệt là EVFTA, các công ty Đức lạc quan về cơ hội đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Báo cáo Triển vọng Kinh doanh Thế giới AHK 2022 cho thấy, 38% doanh nghiệp Đức tại Việt Nam xác nhận tình hình kinh doanh khả quan và mong đợi một kịch bản tốt hơn vào năm 2023 cho họ. Bất chấp những thách thức về nhu cầu, tỷ giá hối đoái và sự gián đoạn chuỗi cung ứng, 82% doanh nghiệp Đức có dự định đầu tư thêm tại Việt Nam trong 12 tháng tới.

Đối mặt với ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 và chuỗi cung ứng bị gián đoạn, 89% doanh nghiệp Đức được khảo sát tại Trung Quốc đang cố gắng tìm nhà cung cấp mới và 64% trong số họ cần đa dạng hóa sản xuất. 60% trong số đó đang tìm kiếm các nhà cung cấp/địa điểm bổ sung mới ở châu Á.

Việt Nam – địa điểm đầu tư lý tưởng của Đức tại châu Á

Ước tính có khoảng 5.200 công ty Đức đang hoạt động tại Trung Quốc và một số đang áp dụng chiến lược đa dạng hóa địa điểm đầu tư. Một số doanh nghiệp xem xét các quốc gia châu Á khác, bao gồm Bangladesh, Sri Lanka và Ấn Độ, nhưng 95% trong số họ đặt ASEAN là ưu tiên. Trong khối ASEAN, Việt Nam là một trong những quốc gia/điểm đến phù hợp nhất trong chiến lược Trung Quốc + 1 của họ.

Từ khi đại dịch Covid-19 tại Việt Nam được kiểm soát bước đầu, Việt Nam mở cửa biên giới trở lại vào ngày 15/3/2022, đại diện của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa của Đức đã đến Việt Nam để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các dự án chất lượng cao của Đức, Việt Nam sẽ nhận được những lợi ích lâu dài và đáng kể từ các công nghệ nổi tiếng của Đức, giúp sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn.

Trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Đức Olaf Scholz và phái đoàn gồm 12 công ty Đức tới Việt Nam tháng 11/2022, Thủ tướng Đức đã tái khẳng định rằng, các công ty Đức muốn đa dạng hóa lợi ích của họ ở châu Á và Việt Nam là một trung tâm sản xuất tiềm năng cho họ. Chuyến thăm được coi là cơ hội mở ra một chương mới trong quan hệ hợp tác, hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước, thể hiện cam kết và quyết tâm cùng nhau đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.

Trong điều kiện và môi trường thuận lợi, ngày càng được cải thiện, chúng tôi kỳ vọng các nhà đầu tư Đức sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam với nhiều dự án có giá trị cao. Với EVFTA, Việt Nam sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ công nghệ nổi tiếng của Đức trong quản lý và đào tạo, sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn và ít lãng phí nguyên vật liệu và tài nguyên hơn.

EVFTA đã thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền cơ bản của người dân tại nơi làm việc và môi trường. Đó là nền tảng tuyệt vời cho Việt Nam và sẽ làm cho Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn như một địa điểm đầu tư lý tưởng. Nó sẽ mang lại lợi thế cho Việt Nam trong việc thu hút các nhà đầu tư Đức và châu Âu, kể từ khi Luật về Nghĩa vụ thẩm định doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng (LkSG) được Đức thông qua vào tháng 6/2021, sẽ có hiệu lực từ năm 2023, bao gồm các tiêu chuẩn khắt khe hơn đối với các doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng của Đức.

Mục tiêu của luật này là cải thiện việc bảo vệ nhân quyền trong chuỗi cung ứng toàn cầu và ngăn chặn lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, cấm sử dụng các chất có hại cho con người và môi trường. Việc chống phân biệt đối xử, lương đủ sống và giờ làm việc hợp lý cũng là trọng tâm của Đạo luật. Luật cũng yêu cầu các doanh nghiệp Đức xây dựng cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả, phù hợp cho chuỗi cung ứng của mình và tích hợp cơ chế đó vào tất cả các chu trình sản xuất – kinh doanh quan trọng.

Bên cạnh đó, hợp tác trong lĩnh vực năng lượng bền vững luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quan hệ giữa Việt Nam và Đức khi Việt Nam thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc phát triển năng lượng tái tạo, với tầm nhìn dài hạn về chuyển dịch năng lượng bền vững.

Vào tháng 11/2022, UBND tỉnh Bình Định và Công ty PNE AG đã ký kết biên bản ghi nhớ về việc hợp tác trong dự án điện gió ngoài khơi dự kiến ​​có vốn đầu tư 4,6 tỷ USD. Lễ ký kết được tổ chức trong khuôn khổ sự kiện xúc tiến đầu tư giữa Bình Định và CHLB Đức, do UBND tỉnh Bình Định và AHK Việt Nam phối hợp tổ chức. Đây là dấu mốc đáng ghi nhớ sau hơn hai năm kể từ khi nhà đầu tư bày tỏ mong muốn khảo sát, lập trang trại điện gió ngoài khơi tại Bình Định. PNE AG hy vọng biến Việt Nam thành nhà cung cấp điện gió cạnh tranh ở khu vực Đông Nam Bộ và các khu vực khác.

Việt Nam đang xây dựng một cấu trúc mới về nguồn năng lượng, với tỷ trọng năng lượng sạch tăng lên. Chính phủ Việt Nam đang tạo ra môi trường thuận lợi hơn và khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm các nguồn thủy điện tự nhiên, năng lượng mặt trời và năng lượng gió.

Quan trọng nhất, năng lượng xanh sẽ là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư Đức và nhà đầu tư quốc tế trong tương lai. Vào ngày 14/12/2022, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Nhóm đối tác Quốc tế (IPG) bao gồm Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Italy, Canada, Nhật Bản, Na Uy và Đan Mạch đã ký kết thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Bình đẳng (JETP) trị giá 15,5 tỷ USD.

Theo thỏa thuận này, Việt Nam cam kết thực hiện một loạt mục tiêu mới nhằm cắt giảm khoảng 500 triệu tấn khí thải vào năm 2035. Thỏa thuận sẽ giúp Việt Nam giảm điện than, “xây dựng ngành điện thế kỷ 21”. Việc thông qua tuyên bố chính trị này cũng khẳng định cam kết mạnh mẽ, nhất quán và nỗ lực to lớn của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong việc chung tay giải quyết một trong những thách thức to lớn của thế giới.

]]>
Việt Nam và Pháp hợp tác để cùng nhau trở nên mạnh mẽ hơn https://doanhnhandautu.com/viet-nam-va-phap-hop-tac-de-cung-nhau-tro-nen-manh-me-hon/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:44 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4781 Pháp và Việt Nam chia sẻ nhiều nguyên tắc và giá trị, sẽ cùng nhau trở nên mạnh mẽ hơn để đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn phía trước.]]>
Pháp và Việt Nam chia sẻ nhiều nguyên tắc và giá trị, sẽ cùng nhau trở nên mạnh mẽ hơn để đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn phía trước.
Việt Nam và Pháp hợp tác để cùng nhau trở nên mạnh mẽ hơn
Ông Nicolas Warnery, Đại sứ Cộng hòa Pháp tại Việt Nam

Đẩy mạnh hợp tác thương mại

Năm 2023, Cộng hòa Pháp và Việt Nam kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược. Đây là cơ hội tốt để nhìn lại và đánh giá những gì hai nước đã đạt được trong lĩnh vực thương mại và đầu tư trong những thập kỷ qua, đồng thời thảo luận các biện pháp nhằm phát triển hơn nữa hợp tác kinh tế.

Pháp là một trong những quốc gia phương Tây đầu tiên hỗ trợ quá trình cải cách và mở cửa của Việt Nam vào những năm 1980. Pháp cũng nằm trong số các nhà cung cấp hỗ trợ phát triển chính thức của Việt Nam. Thương mại song phương giữa hai nước đã liên tục tăng trưởng, đạt gần 7 tỷ euro (7,45 tỷ USD) vào năm 2021 và có thể lên tới 8 tỷ euro (8,5 tỷ USD) vào năm 2022. Nhiều sản phẩm bán ở Pháp được gia công tại Việt Nam.

Tuy nhiên, thương mại song phương giữa Việt Nam và Pháp vẫn còn khá mất cân bằng. Năm 2021, thâm hụt thương mại của Pháp với Việt Nam ổn định ở mức 4,3 tỷ euro (4,57 tỷ USD), nhưng có thể tăng lên hơn 5 tỷ euro (5,32 tỷ USD) vào năm 2022. Xuất khẩu của Pháp sang Việt Nam đã đạt 1,2 tỷ euro (1,27 tỷ USD) vào năm 2021 và ổn định vào năm 2022. Ngược lại, hàng nhập khẩu của Pháp từ Việt Nam rất năng động: đạt 5,5 tỷ euro (5,85 tỷ USD) vào năm 2021 và có thể lên tới 7 tỷ euro (7,45 tỷ USD) vào năm 2022.

Nhìn về tương lai, tôi tin rằng, nhiều biện pháp có thể được thực hiện nhằm tăng cường và tái cân bằng thương mại của chúng ta. Có thể thấy, người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu thực sự đối với các sản phẩm của Pháp và ngược lại.

Pháp là quốc gia ủng hộ mạnh mẽ Hiệp định Thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA). Việc thực thi EVFTA giúp hai nền kinh tế của chúng ta hội nhập sâu hơn. Để phù hợp với các cam kết của Việt Nam đối với EVFTA, việc tiếp cận thị trường đối với các sản phẩm nông nghiệp và dược phẩm của châu Âu và Pháp, vốn rất phổ biến ở Việt Nam, cần được nới lỏng và sắp xếp hợp lý hơn nữa, phù hợp với các quy định của EVFTA. Đây không chỉ là vấn đề kinh doanh, mà còn mang lại lợi ích to lớn cho người tiêu dùng và bệnh nhân Việt Nam.

Về mặt này, Business France (cơ quan quốc gia hỗ trợ xuất khẩu và phát triển quốc tế của các doanh nghiệp Pháp cũng như xúc tiến và thu hút đầu tư quốc tế vào Pháp) hợp tác với các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Pháp để giúp họ tìm kiếm cơ hội xuất khẩu tại Việt Nam trong các lĩnh vực như thiết bị công nghiệp, nông sản, thực phẩm, hàng tiêu dùng hoặc các giải pháp công nghệ bao gồm fintech (công nghệ tài chính), medtech (công nghệ y tế) và edtech (công nghệ giáo dục).

Tăng cường đầu tư

Về đầu tư, Pháp là đối tác quan trọng tại Việt Nam, đứng thứ ba trong số các nước châu Âu đã đầu tư vào Việt Nam. Nhìn chung, Pháp là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 16 tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký đến nay là 3,6 tỷ USD. Đã có 35 trong tổng số 40 công ty của nhóm CAC-40 (nhóm 40 công ty được định giá cao nhất của Pháp trên sàn chứng khoán Paris) đã đặt chân vào Việt Nam.

Người Việt Nam có thể thấy các công ty này hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như các dự án cơ sở hạ tầng. Việc thực hiện những dự án này chưa bao giờ là dễ dàng, có thể bị trì hoãn, kéo dài và thường bị ảnh hưởng, nhưng chúng tôi tự hào về những gì các dự án này đang đạt được và tin rằng, chúng sẽ hỗ trợ nhiều cho người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều doanh nhân Pháp đã thành lập các công ty rất thành công tại Việt Nam, điển hình như Vergers du Mekong, Annam Gourmet, Aden Services và Saint-Honoré. Đó là những bằng chứng về sức hấp dẫn của Việt Nam.

Khi nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển, nhiều công ty Pháp cũng bắt đầu coi Việt Nam là cơ sở để thiết kế sản phẩm mới hoặc tiến hành các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Những doanh nghiệp khác cũng thành lập các văn phòng để hỗ trợ Việt Nam đẩy mạnh số hóa và khai thác nguồn nhân lực công nghệ thông tin tài năng. Tôi tin rằng, đó là những xu hướng sẽ tiếp tục phát triển. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam đang theo sát những xu hướng này để hỗ trợ tốt hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Pháp đổi mới trong một môi trường không ngừng phát triển.

Một số công ty Việt Nam cũng đã đầu tư vào Pháp. Trong số những công ty mới nhất thành lập công ty con ở Pháp, có những cái tên quen thuộc như Vietnam Airlines, FPT Software, Viettel và VinFast. Tôi tin rằng, đây là một khía cạnh khác của mối quan hệ mà trong đó, mọi thứ có thể tiến xa hơn nữa. Pháp tự hào có một thị trường lớn, năng động và có liên kết đặc biệt với các thị trường khác, như châu Phi. Hệ sinh thái đổi mới của Pháp (nhân tài, thuế, năng lực tổng thể) cũng được các công ty công nghệ đánh giá cao. Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ các công ty Việt Nam hội nhập quốc tế bằng cách thành lập các nhà máy công nghiệp và trung tâm R&D trên lãnh thổ của chúng tôi. Trong những tháng tới, Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam có kế hoạch đến thăm nhiều tập đoàn Việt Nam hơn để thảo luận về những cơ hội này và xem làm thế nào để chúng tôi có thể hỗ trợ các tập đoàn này tốt hơn.

Hai nước chúng ta đã phát triển quan hệ đối tác lâu dài trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cơ sở hạ tầng, giao thông – vận tải, năng lượng và không gian. Trong lĩnh vực giao thông bền vững, Dự án tuyến tàu điện ngầm số 3 tại Hà Nội (được tài trợ phần lớn bởi viện trợ phát triển công cộng của Pháp và do một số nhóm người Pháp thực hiện) là dự án hàng đầu của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng, phần trên cao của dự án này sẽ mở cửa cho công chúng tham quan vào năm 2023, nhân kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Tuy nhiên, một số rào cản hành chính vẫn chưa được giải quyết để mong muốn này trở thành hiện thực. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam đang làm việc với các cơ quan chức năng của Việt Nam để hiện thực hóa mong muốn này.

Trong vài năm qua, Pháp và Việt Nam đã mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác song phương trong các lĩnh vực y tế, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, kinh tế số, giáo dục và nghiên cứu, cũng như quốc phòng và an ninh. Những lĩnh vực đó là tương lai của chúng ta. Đầu tư vào những lĩnh vực này một lần nữa là bằng chứng mạnh mẽ về sự tin tưởng lẫn nhau ngày càng tăng giữa hai nước. Thông qua các liên hệ và tiếp xúc hàng ngày của chúng tôi với các lãnh đạo cơ quan chức năng Việt Nam và bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các cuộc điện đàm và các chuyến thăm cấp cao giữa các nhà lãnh đạo của hai nước, chúng tôi hy vọng sẽ củng cố hơn nữa sự tin cậy này để mở đường cho mối quan hệ ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực.

Hai nước chúng ta có những tham vọng quan trọng trong những năm tới. Pháp và Việt Nam chia sẻ những nguyên tắc và giá trị nhất định và sẽ cùng nhau trở nên mạnh mẽ hơn để đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn phía trước: khủng hoảng quốc tế, các cuộc tấn công chống lại chủ nghĩa đa phương, biến đổi khí hậu, chuyển đổi hệ thống nông nghiệp để trở nên bền vững và lành mạnh hơn và các dịch bệnh mới. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam đang hợp tác với các cơ quan chức năng và doanh nghiệp Việt Nam để tìm ra giải pháp chung cho những vấn đề quan trọng đối với tương lai của chúng ta và của cả hành tinh.

]]>
Quan hệ đối tác mới Việt Nam – Phần Lan https://doanhnhandautu.com/quan-he-doi-tac-moi-viet-nam-phan-lan/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:53 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5452 Trong bối cảnh Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, quan hệ giữa Việt Nam và Phần Lan chuyển dần trọng tâm từ hợp tác phát triển sang hợp tác đầu tư và thương mại. Xin gửi tới độc giả trích lược bài viết của tác giả viết riêng cho Báo Đầu tư.]]>
Trong bối cảnh Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, quan hệ giữa Việt Nam và Phần Lan chuyển dần trọng tâm từ hợp tác phát triển sang hợp tác đầu tư và thương mại. Xin gửi tới độc giả trích lược bài viết của tác giả viết riêng cho Báo Đầu tư.
Quan hệ đối tác mới Việt Nam – Phần Lan
Phần Lan là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về công nghệ sạch, nên tiềm năng hợp tác với Việt Nam là rất lớn

Quan hệ đối tác mới

Để tạo điều kiện chuyển đổi từ hợp tác phát triển dựa trên viện trợ không hoàn lại sang tăng cường thương mại và các hình thức hợp tác cùng có lợi khác ở Việt Nam, một số chương trình, công cụ và nền tảng mới đã được giới thiệu, bao gồm Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo (IPP) 2009 – 2018.

Với vai trò là một trong những chương trình trọng điểm về hợp tác giữa Phần Lan với Việt Nam, hai giai đoạn của IPP đã giới thiệu các nền tảng hợp tác. Theo báo cáo “Quá trình chuyển đổi quan hệ hợp tác Phần Lan – Việt Nam 2008-2020”, cơ sở mà IPP góp phần xây dựng đã được chứng minh là cần có để chuyển đổi sang các hình thức hợp tác mới.

Đặc biệt, Chương trình đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng Hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo quốc gia. Với nhiều kết quả có tiếng vang, các tác động của chương trình được duy trì, mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh mới trên nền tảng vững chắc là lòng tin, tri thức mới, kỹ năng, kỹ thuật, công nghệ cao và đặc biệt là quan hệ đối tác hiệu quả, với sự tham gia của các chủ thể khác nhau của hai nước.

Góp phần phát triển kinh tế Việt Nam

Từ khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực vào năm 2020, quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Phần Lan đã có những bước tăng trưởng ấn tượng. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng khoảng 3,5 lần trong 15 năm qua, đạt 337,5 triệu USD.

Việc giảm thuế nhờ EVFTA đã mở ra cơ hội mới về xuất khẩu thực phẩm sang Việt Nam. Mới đây, chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Nông – Lâm nghiệp Phần Lan Antti Kurvinen đã góp phần thúc đẩy giao thương các mặt hàng nông sản thực phẩm, chuyển giao công nghệ trong ngành lâm nghiệp và ngành nước giữa hai quốc gia.

Góp phần phát triển kinh tế Việt NamTừ khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực vào năm 2020, quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Phần Lan đã có những bước tăng trưởng ấn tượng.Từ khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực vào năm 2020, quan hệ thương

Việt Nam đã khởi động Chương trình Chuyển đổi số quốc gia từ năm 2020 với mục tiêu trở thành xã hội kỹ thuật số vào năm 2030. Các công ty Phần Lan hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, công nghệ 5G, an ninh mạng, Internet vạn vật (IoT), logistics và công nghệ giáo dục có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của Việt Nam về một ngành công nghệ thông tin tiên tiến với nhu cầu số hóa cao.

Do vị trí địa lý và nền kinh tế tập trung vào nông nghiệp và xuất khẩu hàng hóa, Việt Nam đặc biệt dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Chính phủ Việt Nam đã xác định mục tiêu đạt mức trung hòa carbon vào năm 2050.

Khi Việt Nam cam kết đạt mức trung hòa carbon vào năm 2050 bằng cách tăng cường năng lượng tái tạo và giảm sử dụng than, thì các giải pháp khí hậu xanh và thông minh từ Phần Lan trở thành chìa khóa mở ra tiềm năng cho Việt Nam có thể bắt kịp viễn cảnh phát triển bền vững toàn cầu và giải quyết những thách thức về khí hậu trong tương lai.

Phần Lan hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và sản xuất. Các giải pháp thay thế như xử lý chất thải, chất thải thành năng lượng, tiết kiệm năng lượng và công nghệ kinh tế tuần hoàn cũng là những lĩnh vực mà Phần Lan có thể cung cấp chuyên môn hàng đầu thế giới cho Việt Nam.

Trong khi đó, giáo dục của Phần Lan đã trở thành điểm nhấn đối với thị trường Việt Nam với nền giáo dục chất lượng cao xuyên suốt từ cấp cơ sở đến giáo dục đại học. Phần Lan tiếp tục hỗ trợ người Việt Nam theo đuổi học tập và sự nghiệp tại Phần Lan. Hơn nữa, Việt Nam là một trong những quốc gia ưu tiên trong chương trình của Bộ Kinh tế và Việc làm Phần Lan nhằm khuyến khích sự dịch chuyển lao động, sinh viên và chuyên gia lành nghề đến Phần Lan. Về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục cơ bản, các tổ chức giáo dục Phần Lan đã hoạt động tích cực tại Việt Nam và triển vọng về công nghệ giáo dục tại Việt Nam trong tương lai là rất hứa hẹn.

Phát triển bền vững

Sức mạnh của các doanh nghiệp Phần Lan không chỉ nằm ở khả năng cung cấp các giải pháp công nghệ sáng tạo mạnh mẽ trên toàn cầu, mà còn ở sự tiên phong về hiệu quả kinh tế và định hướng bền vững. Tính bền vững và phúc lợi là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế dài hạn và các giải pháp bền vững tạo ra các cơ hội thị trường mới nổi như Việt Nam.

Các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (ESG) ngày càng phổ biến trên thế giới và các công ty Phần Lan luôn tìm cách mở rộng hoạt động kinh doanh của họ trong một môi trường lành mạnh và bền vững. Để thu hút thêm nhiều doanh nghiệp và chuyên gia Phần Lan, Chính phủ Việt Nam có thể tạo các điều kiện ưu tiên doanh nghiệp về ESG và thúc đẩy một thị trường năng động, minh bạch.

Dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Phần Lan và Việt Nam là cơ hội quý giá để nhìn lại mối quan hệ đối tác đã được duy trì trong hơn 5 thập kỷ qua. Trước những thay đổi về bối cảnh, Phần Lan vinh dự được tiếp tục củng cố quan hệ song phương với Việt Nam và tìm kiếm thêm nhiều phương thức để thúc đẩy quan hệ đối tác kinh tế và giao lưu văn hóa giữa hai nước.

]]>
EVFTA tạo xung lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – EU https://doanhnhandautu.com/evfta-tao-xung-luc-moi-cho-thuong-mai-va-dau-tu-viet-nam-eu/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:05 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6402 Việt Nam - nền kinh tế đang tỏa sáng với mức tăng trưởng cao và EU - nơi có thị trường gần 450 triệu dân, đang gia tăng hợp tác thương mại và đầu tư nhờ một hiệp định thương mại tự do song phương mang lại nhiều lợi ích trong hơn hai năm qua, với triển vọng rất tích cực.]]>
Việt Nam – nền kinh tế đang tỏa sáng với mức tăng trưởng cao và EU – nơi có thị trường gần 450 triệu dân, đang gia tăng hợp tác thương mại và đầu tư nhờ một hiệp định thương mại tự do song phương mang lại nhiều lợi ích trong hơn hai năm qua, với triển vọng rất tích cực.
EVFTA tạo xung lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – EU
Hiện 80% cà phê Việt Nam xuất khẩu sang EU là sản phẩm thô do các nhà sản xuất chưa tạo ra các sản phẩm chế biến phù hợp nhất với thị hiếu của thị trường. Ảnh: Đ.T

Lợi ích lớn

Một trong những trọng tâm lớn của ông Giorgio Aliberti kể từ khi nhận nhiệm vụ Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam vào cuối năm 2019 là thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nền kinh tế Việt Nam và EU, mà động lực là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8/2020, trong bối cảnh tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam được dự báo gần 7%/năm trong giai đoạn 2020-2025.

Ông Aliberti cho biết, nhờ có EVFTA, EU đã có thể tiếp cận thị trường Việt Nam – một nền kinh tế sôi động với gần 100 triệu dân, tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh nhất trong ASEAN và một lực lượng lao động năng động, trẻ, dồi dào, đang phát triển nhanh chóng – thuận lợi hơn.

“Trên thực tế, EVFTA đã đặt các nhà xuất khẩu và nhà đầu tư của EU ít nhất ngang bằng các nhà đầu tư và nhà xuất khẩu từ các quốc gia và khu vực khác đã ký kết hiệp định thương mại với Việt Nam như ASEAN, Australia, New Zealand, Chile, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Mỹ, Hàn Quốc và 11 quốc gia thành viên của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)”, ông Aliberti nói.

Theo Bộ Công thương, năm 2021, tổng giá trị thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và EU đạt 56,8 tỷ USD, bao gồm 39,9 tỷ USD giá trị xuất khẩu của Việt Nam, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm ngoái và 16,9 tỷ USD giá trị nhập khẩu của Việt Nam, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm ngoái, thặng dư thương mại là 23 tỷ USD.

Trong năm 2022, Việt Nam đạt thặng dư thương mại từ EU khoảng 31,8 tỷ USD, xuất khẩu đạt 47,1 tỷ USD – tăng 17,4%; nhập khẩu đạt 15,3 tỷ USD – giảm 9,4%. Theo ước tính sơ bộ, trong tháng 1/2023, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang EU đạt 3 tỷ USD và nhập khẩu 1,2 tỷ USD, xuất siêu 1,8 tỷ USD.

“Việt Nam đạt thặng dư thương mại đáng kể với EU. Đây là một chỉ số mạnh mẽ cho thấy sự phục hồi kinh tế của Việt Nam sau đại dịch và thương mại song phương Việt Nam – EU đang tăng trưởng”, Công ty Tư vấn Dezan Shira & Associates cho biết.

Theo Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, đối với các thương nhân Việt Nam, lợi ích từ khi EVFTA có hiệu lực còn cao hơn. Về mặt thị trường, EVFTA cho phép các nhà xuất khẩu Việt Nam tiếp cận hơn 450 triệu người tiêu dùng châu Âu có thu nhập khả dụng cao nhất thế giới.

Kể từ khi EVFTA có hiệu lực, khoảng 85,6% số dòng thuế đã được xóa bỏ hoàn toàn cho hàng hóa Việt Nam. Tỷ lệ này chiếm 70,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Việc xóa bỏ dần thuế nhập khẩu như vậy đã tạo điều kiện cho sự gia tăng 20%/năm của xuất khẩu Việt Nam sang EU.

Đáng chú ý, theo Bộ Công thương, năm 2021, xuất khẩu của Việt Nam sang EU sử dụng chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo hình thức EUR.1 đạt 7,8 tỷ USD, đồng nghĩa với việc nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng cơ hội cắt giảm thuế quan trong EVFTA.

Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng cho biết, trong 2 năm đầu thực thi EVFTA, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 27 nước thành viên EU đạt bình quân 41,7 tỷ USD/năm, cao hơn 24% so với con số trung bình 33,5 tỷ USD trong giai đoạn 2016-2019. Điều này có nghĩa là nhiều nhà xuất khẩu tại Việt Nam đã được hưởng lợi từ việc giảm thuế từ EVFTA.

Theo khảo sát gần đây của VCCI về tác động của EVFTA đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, khoảng 40% doanh nghiệp được hỏi cho biết họ đã tận dụng tốt một số lợi ích – trong đó có lợi ích xuất khẩu – do EVFTA mang lại. Điều này phản ánh Việt Nam đã chứng kiến một số cải thiện trong xuất khẩu sang thị trường EU trong hơn hai năm qua.

“Việc bãi bỏ thuế quan song phương và thuế xuất khẩu, cùng với việc cắt giảm các hàng rào phi thuế quan ảnh hưởng đến trao đổi hàng hóa và dịch vụ xuyên biên giới, dự kiến sẽ thúc đẩy thương mại song phương một cách đáng kể. Lợi nhuận xuất khẩu ước tính đạt 8 tỷ euro (8,3 tỷ USD) vào năm 2035 đối với các công ty EU, trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang EU dự kiến sẽ tăng 15 tỷ euro (15,6 tỷ USD)”, ông Aliberti cho biết.

Vào tháng 9/2022, ông Bernd Lange, Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế (INTA) của Nghị viện châu Âu (EP) đã đến Việt Nam lần thứ tư trong vòng 3 năm qua, nhằm đánh giá việc triển khai EVFTA của Việt Nam. Ông khẳng định, Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng của EU tại khu vực và EP luôn ủng hộ tăng cường hợp tác hai bên trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trong bối cảnh EU đang triển khai nhiều chính sách hướng về khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam.

“EP, bao gồm INTA, sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam thực hiện các cam kết trong EVFTA cũng như mở rộng hợp tác trong lĩnh vực phát triển bền vững. EVFTA là nền tảng vững chắc để thúc đẩy hợp tác thương mại và đầu tư giữa EU và Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Hiệp định đã có tác động tích cực đến cả EU và Việt Nam, với dòng vốn đầu tư và thương mại lớn hơn được ghi nhận”, ông Lange nói.

Triển vọng tích cực

Theo Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, EVFTA và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam – EU (đang chờ phê duyệt từ 15 nước thành viên EU) được kỳ vọng sẽ kích hoạt một làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới từ EU vào Việt Nam.

“Các khoản đầu tư từ EU có chất lượng hàng đầu. Các công ty châu Âu mang kỹ năng cao, cách tổ chức tốt nhất và công nghệ hàng đầu thế giới đến Việt Nam. Đầu tư của châu Âu đi kèm với các tiêu chuẩn cao về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc bảo vệ và đào tạo công nhân và nhân viên, cũng như tôn trọng và bảo vệ môi trường”, ông Aliberti nói.

Ông Aliberti cho rằng, đầu tư của châu Âu cho phép Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm tốt hơn, đồng thời đảm bảo phát triển bền vững. Những tác động lan tỏa này rất cần thiết để các nền kinh tế như Việt Nam tránh bẫy thu nhập trung bình.

Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/1/2023, các nhà đầu tư EU đã đăng ký hơn 26 tỷ USD cho gần 2.250 dự án. Gần đây nhất, Tập đoàn Lego (Đan Mạch) đã được cấp phép đầu tư hơn 1 tỷ USD để xây dựng nhà máy trung hòa các-bon trên khu đất rộng 44 ha ở Bình Dương. Dự án này sẽ là cơ sở sản xuất thứ 6 của Lego và thứ hai ở châu Á, đồng thời tạo ra khoảng 4.000 việc làm trong 15 năm tới. Dự án được khởi công xây dựng vào đầu tháng 11/2022, dự kiến đi vào hoạt động năm 2024.

Theo Dezan Shira & Associates, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU được dự báo sẽ đạt tầm cao mới khi EU kiên định thực hiện cam kết cắt giảm dòng thuế đối với nhiều loại hàng hóa và mặt hàng của Việt Nam trong 3-7 năm tới. Các nhà đầu tư trong các ngành nên tận dụng tối đa lợi thế về thuế quan theo EVFTA để mở rộng hoạt động kinh doanh và xuất khẩu từ Việt Nam sang EU.

“Tiềm năng đang trải rộng đối với nhiều ngành, bao gồm xuất khẩu cà phê và hạt điều sang EU. Hiện 80% điều và cà phê xuất khẩu là sản phẩm thô do các nhà sản xuất Việt Nam vẫn chưa tạo ra các sản phẩm chế biến phù hợp nhất với thị hiếu của EU. Quan trọng nhất là ngành viễn thông và điện tử khi nhu cầu của EU đối với chất bán dẫn và linh kiện tăng cao trong bối cảnh thiếu hụt đầu vào toàn cầu”, Dezan Shira & Associates cho biết.

Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính, chỉ cần được hưởng mức cắt giảm thuế quan như đã thỏa thuận, EVFTA có thể thúc đẩy GDP và xuất khẩu của Việt Nam tăng lần lượt 2,4% và 12% vào năm 2030, đồng thời giúp thêm 100.000-800.000 người thoát nghèo vào năm 2030.

Tuy nhiên, theo WB, Việt Nam có thể hưởng lợi nhiều hơn từ các hiệp định thương mại thế hệ tiếp theo như EVFTA và CPTPP, nếu thúc đẩy một chương trình nghị sự toàn diện về cải cách kinh tế và thể chế để tạo thuận lợi cho tuân thủ các hiệp định phi thuế quan. Những cải cách như vậy sẽ dẫn đến một “cú hích năng suất”, làm tăng GDP thêm 6,8% so với kịch bản cơ sở vào năm 2030.

WB đã nhấn mạnh nhu cầu của Việt Nam trong việc nâng cao năng lực để xử lý một số vấn đề chính, bao gồm quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh động vật, thực vật và giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và Nhà nước.

Trong báo cáo có tiêu đề “Tăng cường hội nhập quốc tế và thực thi EVFTA” phát hành năm 2020, WB cho rằng, yêu cầu về quy tắc xuất xứ là một trong những thách thức chính mà Việt Nam phải vượt qua. Cụ thể, ngay cả khi một sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, các nhà nhập khẩu EU có thể không xác định được sản phẩm đó, do phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu.

Báo cáo trên cho thấy, trong các ngành sản xuất, xuất khẩu chủ chốt, phần lớn nguyên liệu đầu vào có nguồn gốc từ nước ngoài. WB kêu gọi nỗ lực hơn nữa để cải thiện mối liên kết giữa các nhà cung cấp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài với tư cách là những công ty dẫn đầu trong các chuỗi giá trị toàn cầu lớn.

Đồng thời, các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm khắt khe của châu Âu buộc Việt Nam phải cải thiện tính rõ ràng và nhất quán của các biện pháp vệ sinh. Theo một ước tính, chi phí để tuân thủ đầy đủ các biện pháp phi thuế quan hiện có ở Việt Nam sẽ tương đương với mức thuế 16,6% (so với mức trung bình của khu vực là 5,4%).

Theo kế hoạch 2023, các nhà lãnh đạo, các cơ quan chức năng của Việt Nam và EU sẽ tiếp tục gặp gỡ nhau để tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư song phương, đẩy mạnh việc thực thi EVFTA và phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam – EU.

EVFTA là hiệp định thương mại tự do tham vọng nhất mà EU từng ký kết với một nước đang phát triển. Hiệp định này sẽ loại bỏ lẫn nhau tới 99% thuế quan trong vòng 10 năm. 65% hàng xuất khẩu của EU sang Việt Nam và 71% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU được xóa bỏ thuế ngay sau khi EVFTA có hiệu lực.
]]>