Dân tộc thiểu số – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Wed, 20 Aug 2025 09:24:38 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg Dân tộc thiểu số – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Nâng cao sức khỏe cộng đồng dân tộc thiểu số qua mô hình y tế lưu động https://doanhnhandautu.com/nang-cao-suc-khoe-cong-dong-dan-toc-thieu-so-qua-mo-hinh-y-te-luu-dong/ Wed, 20 Aug 2025 09:24:31 +0000 https://doanhnhandautu.com/nang-cao-suc-khoe-cong-dong-dan-toc-thieu-so-qua-mo-hinh-y-te-luu-dong/

Trong nỗ lực thu hẹp khoảng cách chăm sóc sức khỏe tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là đối với nhóm phụ nữ mang thai và bà mẹ nuôi con nhỏ, mô hình y tế lưu động và tư vấn dinh dưỡng cộng đồng đang được triển khai rộng rãi. Tại nhiều xã vùng sâu vùng xa, việc tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản, đặc biệt là chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em, vẫn còn nhiều khó khăn do khoảng cách địa lý, thiếu nhân lực, phương tiện, và rào cản ngôn ngữ.

Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số miền núi
Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số miền núi

Trước những thách thức này, mô hình y tế lưu động và tư vấn dinh dưỡng tại chỗ – ngay tại thôn bản – đã được triển khai nhằm đưa dịch vụ y tế đến gần hơn với người dân. Thay vì chỉ tập trung tại trạm y tế xã, nhiều địa phương đã tổ chức các đội y tế cơ động, phối hợp cùng cán bộ y tế thôn bản để cung cấp viên sắt, hướng dẫn thực hành bữa ăn dinh dưỡng, cân đo đánh giá thể trạng định kỳ và tư vấn chăm sóc thai sản tận nơi cho các bà mẹ.

Đầu tư vào dinh dưỡng cho bé trong giai đoạn 1000 ngày đầu đời chính là sự đầu tư tốt nhất cho sự phát triển cả đời của bé
Đầu tư vào dinh dưỡng cho bé trong giai đoạn 1000 ngày đầu đời chính là sự đầu tư tốt nhất cho sự phát triển cả đời của bé

Mô hình này không chỉ giúp phụ nữ dân tộc thiểu số được tiếp cận dịch vụ y tế đầy đủ hơn, mà còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về dinh dưỡng – điều vốn còn rất hạn chế tại nhiều vùng. Theo TS.BS Huỳnh Nam Phương, Trưởng Phòng Quản lý khoa học – Viện Dinh dưỡng, ngành Y tế và chính quyền địa phương đã và đang triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số.

Tư vấn thăm hộ gia đình tại Hòa Bình với sự hỗ trợ của Tổ chức Tầm nhìn Thế giới
Tư vấn thăm hộ gia đình tại Hòa Bình với sự hỗ trợ của Tổ chức Tầm nhìn Thế giới

Các hoạt động này gồm bổ sung viên sắt/axit folic định kỳ hoặc viên đa vi chất cho phụ nữ mang thai và sau sinh tại tuyến xã, tư vấn dinh dưỡng, chăm sóc thai kỳ, nuôi con bằng sữa mẹ thông qua mạng lưới cán bộ y tế thôn bản. Mô hình chăm sóc dinh dưỡng trong 1000 ngày đầu đời được áp dụng tại nhiều xã vùng III trong khuôn khổ của Dự án 7 Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo mô hình chuẩn.

Tổ chức lớp truyền thông dinh dưỡng, hướng dẫn thực hành nấu ăn cho bà mẹ dân tộc tại cộng đồng tỉnh Điện Biên
Tổ chức lớp truyền thông dinh dưỡng, hướng dẫn thực hành nấu ăn cho bà mẹ dân tộc tại cộng đồng tỉnh Điện Biên

Đến năm 2025, sau 3 năm triển khai, đã có 687 xã có mô hình đạt chuẩn trên tổng số 1354 xã vùng III toàn quốc. Một số địa phương còn phối hợp với tổ chức quốc tế như Tầm nhìn thế giới, Save the Children thực hiện mô hình ‘Câu lạc bộ dinh dưỡng’, hỗ trợ thay đổi hành vi tích cực.

Tuy nhiên, việc triển khai vẫn gặp không ít khó khăn về nguồn lực, nhận thức cộng đồng và tính bền vững. Vì vậy, rất cần sự hỗ trợ liên ngành và đầu tư lâu dài để đảm bảo hiệu quả. Cán bộ y tế thôn bản giữ vai trò nòng cốt trong mô hình này, họ là người đồng bào, hiểu ngôn ngữ, nếp sống và tập quán nên dễ dàng truyền đạt kiến thức dinh dưỡng và tư vấn sức khỏe một cách gần gũi, hiệu quả hơn.

Bên cạnh các dịch vụ y tế trực tiếp, một trong những yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả chăm sóc dinh dưỡng là truyền thông thay đổi hành vi. Nhiều bà mẹ người dân tộc thiểu số vẫn duy trì thói quen ăn uống đơn điệu, kiêng khem sai cách trong thai kỳ hoặc sau sinh, cho con ăn dặm sớm, dẫn đến thiếu vi chất nghiêm trọng.

Do đó, việc lồng ghép truyền thông về dinh dưỡng vào sinh hoạt cộng đồng là cách làm đang được một số tỉnh vùng cao triển khai hiệu quả. Chẳng hạn, tại các buổi họp bản, hội phụ nữ hoặc phiên chợ vùng cao, cán bộ y tế có thể phát tài liệu hướng dẫn, kể chuyện dinh dưỡng bằng tiếng dân tộc, tổ chức trò chơi kiến thức để giúp người dân dễ nhớ, dễ làm theo.

Dù còn nhiều thách thức, mô hình y tế lưu động và tư vấn dinh dưỡng tại bản đang chứng minh tính phù hợp với địa bàn vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Việc đầu tư thêm nguồn lực, trang thiết bị di động và chính sách hỗ trợ cho cán bộ y tế thôn bản sẽ là yếu tố then chốt để mô hình này lan rộng, tạo nền tảng vững chắc cho chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em vùng dân tộc thiểu số.

]]>
ANTV phanh phui chiêu trò của các thế lực thù địch, tổ chức lưu vong ly khai ở vùng cao https://doanhnhandautu.com/antv-phanh-phui-chieu-tro-cua-cac-the-luc-thu-dich-to-chuc-luu-vong-ly-khai-o-vung-cao/ Fri, 08 Aug 2025 14:40:02 +0000 https://doanhnhandautu.com/antv-phanh-phui-chieu-tro-cua-cac-the-luc-thu-dich-to-chuc-luu-vong-ly-khai-o-vung-cao/

Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông đã lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để tăng cường các hoạt động kích động và tuyên truyền ý tưởng về tự trị ly khai trong số các dân tộc thiểu số. Những hoạt động này nhằm mục đích chia rẽ và gây mất đoàn kết trong nội bộ, tạo ra sự bất ổn và mất an ninh trong khu vực.

Đặc biệt, tại các khu vực cao nguyên, vùng sâu vùng xa và các khu vực xa xôi thuộc các tỉnh biên giới phía Bắc, hoạt động tuyên truyền này đang ngày càng trở nên phổ biến. Các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông đã tận dụng các kênh truyền thông và mạng xã hội để phát tán thông tin sai lệch và tuyên truyền ý tưởng về tự trị ly khai, nhằm thu hút sự chú ý và ủng hộ của các dân tộc thiểu số.

Đài ANTV, một kênh truyền thông được tài trợ toàn phần hoặc một phần bởi Chính phủ Việt Nam, đã đưa tin về vấn đề này trong chương trình ‘Quan điểm sự thật’ với tiêu đề ‘Sự hoang tưởng của người lưu vong về một quốc gia trên cao nguyên đá’. Chương trình này đã phân tích và làm rõ các hoạt động của các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông, đồng thời khẳng định quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo vệ an ninh và quyền lợi của các dân tộc thiểu số.

Chương trình ‘Quan điểm sự thật’ trên Đài ANTV đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các hoạt động kích động và tuyên truyền của các thế lực thù địch và tổ chức lưu vong Mông. Thông qua chương trình này, công chúng có thể hiểu rõ hơn về những mưu tính và hoạt động của các thế lực thù địch, cũng như vai trò của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo vệ an ninh và ổn định trong khu vực.

Có thể thấy, việc tuyên truyền ý tưởng về tự trị ly khai trong số các dân tộc thiểu số là một vấn đề nghiêm trọng và cần được quan tâm. Chính phủ Việt Nam và các cơ quan chức năng cần tăng cường các biện pháp để ngăn chặn và đấu tranh chống lại các hoạt động kích động và tuyên truyền sai lệch này, nhằm bảo vệ an ninh và quyền lợi của các dân tộc thiểu số.

Đài ANTV đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong việc cung cấp thông tin chính xác và tin cậy cho công chúng. Thông qua các chương trình như ‘Quan điểm sự thật’, Đài ANTV đã giúp nâng cao nhận thức và hiểu biết của công chúng về các vấn đề quan trọng, đồng thời góp phần vào việc bảo vệ an ninh và ổn định trong khu vực.

]]>
Tiếng sáo trong đời sống người Cơ Tu ở Đắc Pring https://doanhnhandautu.com/tieng-sao-trong-doi-song-nguoi-co-tu-o-dac-pring/ Thu, 07 Aug 2025 21:57:00 +0000 https://doanhnhandautu.com/tieng-sao-trong-doi-song-nguoi-co-tu-o-dac-pring/

Trên cánh đồng xã Đắc Pring, thành phố Đà Nẵng, ngôi nhà làng của người Ve là một điểm dừng chân thú vị trong hành trình khám phá văn hóa của dân tộc Gié Triêng. Khi ngước nhìn lên vách mái nhà làng, bên cạnh những đầu trâu mà dân làng đã trải qua bao mùa hiến trâu ăn mừng lúa mới, là những cây sáo làm từ tre nứa, được đặt cẩn thận và trang nghiêm. Không chỉ đơn thuần là nhạc cụ, chúng còn đại diện cho ký ức của làng, cho sự hiện diện của bao lớp người Ve giữa núi rừng Trường Sơn.

Thanh niên người Ve tỏ tình cùng con gái với tiếng sáo Tuốt léc
Thanh niên người Ve tỏ tình cùng con gái với tiếng sáo Tuốt léc

Bản làng người Ve, một nhóm địa phương của dân tộc Gié Triêng, ở xã Đắc Pring hiện lên với vẻ mộc mạc, tương xứng với tính cách của những con người sống bền bỉ giữa đại ngàn. Tại đây, bên tiếng suối róc rách, giữa thung lũng thấp thoáng khói bếp chiều, những âm thanh xưa cũ vẫn đang được lưu giữ bằng nhạc cụ đơn sơ – những cây sáo bằng nứa. Không chỉ là một phần của cuộc sống hàng ngày, những cây sáo này còn giữ vai trò quan trọng trong các sự kiện và nghi thức của cộng đồng người Ve.

Ông Hiên Dân trò chuyện, giới thiệu với khách về cây sáo
Ông Hiên Dân trò chuyện, giới thiệu với khách về cây sáo

Chúng tôi đã có cơ hội tìm hiểu về những cây sáo này và được ông Zơ Râm Ngăm, 65 tuổi, chia sẻ về một sự tích được người Ve truyền đời. Câu chuyện bắt đầu từ một làng Bút Zriêng Dac Bloong, nơi có một gia đình Ve nghèo khổ. Vì nghèo, họ thường bị nhà giàu trong làng hắt hủi, xua đuổi. Sau khi người cha qua đời, hai đứa con trai chỉ biết lặng lẽ cắt một ống nứa nhỏ, đưa lên miệng thổi, mỗi lần nhớ cha. Đó chính là cây sáo Pà bam – tiếng khóc ngắn, nghẹn lại trong lòng.

Ông Zơ Râm Ngăm đang thổi sáo Pà bam
Ông Zơ Râm Ngăm đang thổi sáo Pà bam

Ít lâu sau, người mẹ cũng ra đi. Lần này, hai anh em thực sự côi cút. Họ không được khóc, và một lần nữa, họ chọn một ống nứa khác, dài hơn, để tạo ra thứ âm thanh dài, nghẹn ngào, vọng mãi trong rừng sâu. Đó là Đinh buôn – tiếng khóc dài, tiễn mẹ về suối. Những cây sáo này không chỉ là nhạc cụ, mà còn là phương tiện để người Ve thổ lộ, tưởng niệm, và tâm sự những điều mà họ không thể nói bằng lời.

Người Ve đã lưu giữ lại những ký ức, cảm xúc bằng cách tạo ra nhạc cụ – không để biểu diễn, mà để kết nối với quá khứ, với cộng đồng. Ngày nay, người Ve xã Đắc Pring không chỉ cần cù trong lao động mà còn rất tự hào trong việc giữ gìn văn hóa. Trong các lễ hội, trong các sinh hoạt văn nghệ, tiếng sáo Pà bam, Đinh buôn, Tuốt léc vẫn vang lên giữa đại ngàn như một gạch nối giữa quá khứ và hiện tại.

Những cây sáo ấy không chỉ là món ăn tinh thần, mà còn là biểu tượng văn hóa – lặng lẽ nhưng bền bỉ của cả một cộng đồng. Khi rời khỏi Đắc Pring, chúng tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng sáo Pà bam, sáo Tuốt léc của ông Zơ Râm Ngăm, sáo Đinh buôn của ông Hiên Dân thổi tặng. Những tiếng sáo vừa nghe còn ngân nga đâu đây. Âm thanh ấy, những tiếng lòng, tình yêu, hạnh phúc hay đau khổ qua tiếng sáo thân thương vẫn vang lên cùng gió, cùng rừng, cùng thời gian.

]]>
Sơn La: Bảo tàng và Thư viện tỉnh tích cực bảo tồn và lan tỏa di sản văn hóa dân tộc https://doanhnhandautu.com/son-la-bao-tang-va-thu-vien-tinh-tich-cuc-bao-ton-va-lan-toa-di-san-van-hoa-dan-toc/ Sun, 27 Jul 2025 20:00:48 +0000 https://doanhnhandautu.com/son-la-bao-tang-va-thu-vien-tinh-tich-cuc-bao-ton-va-lan-toa-di-san-van-hoa-dan-toc/

Trong nỗ lực không ngừng nghỉ để giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa của dân tộc, lan tỏa sâu rộng truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa đến cộng đồng, Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và tình yêu với nghề. Đây là hành động xuất phát từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hóa, xem di sản văn hóa là linh hồn trường tồn của một dân tộc.

Thực hiện các nội dung đột phá về bảo tồn văn hóa phi vật thể, bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, quản lý hiện vật, tư liệu, Chi bộ Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực. Đồng chí Ngô Thị Hải Yến, Bí thư Chi bộ, Giám đốc Bảo tàng và Thư viện tỉnh cho biết, Chi bộ có 45 đảng viên, thường xuyên tổ chức các cuộc sinh hoạt chuyên đề với nội dung phù hợp với tình hình thực tiễn của cơ quan. Mỗi cán bộ, đảng viên cụ thể hóa và đăng ký 2-3 phần việc làm theo Bác cụ thể sát với nhiệm vụ chuyên môn.

Giai đoạn 2016-2024, đã có 15 di sản văn hóa phi vật thể của Sơn La được công bố và đưa vào danh mục quốc gia; trong đó, nghệ thuật Xòe Thái được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; có 10 di tích được xếp hạng; hơn 35.000 hiện vật, tư liệu được bảo quản tại Bảo tàng Sơn La. Mỗi năm, đơn vị nghiên cứu, sưu tầm thêm từ 200 đến 300 hiện vật, tư liệu phục vụ trưng bày. Những con số ấn tượng này cho thấy sự nỗ lực không ngừng của Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.

Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La cũng chú trọng ứng dụng số hóa di sản vào công tác chuyên môn; tiến hành kiểm kê đồng bộ, số hóa, chuẩn hóa tư liệu, hiện vật và đưa đến công chúng qua website hoặc mã QR-Code. Việc ứng dụng công nghệ số vào công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đã giúp cho công chúng tiếp cận với di sản văn hóa một cách dễ dàng và rộng rãi hơn.

Chi bộ đã chỉ đạo triển khai nhiều hoạt động quảng bá, giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp của Bác Hồ. Tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh, trưng bày cố định chuyên đề “Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Sơn La”, giới thiệu hiện vật, hình ảnh quý về tình cảm của Bác đối với đồng bào, cũng như tình cảm của đồng bào các dân tộc Sơn La dành cho Bác. Qua đó, giúp cho thế hệ trẻ và cộng đồng hiểu rõ hơn về lịch sử và truyền thống của dân tộc.

Trong 2 năm (2023 và 2024), Chi bộ đã triển khai mô hình “Giáo dục truyền thống lịch sử địa phương tại điểm Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La” cho học sinh các trường tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn tỉnh; tổ chức 154 cuộc giáo dục truyền thông, thu hút trên 320.000 lượt học sinh, sinh viên và chiến sĩ các lực lượng vũ trang tham gia. Qua đó, giúp cho thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về lịch sử và truyền thống của dân tộc, từ đó hun đúc tình yêu quê hương, đất nước.

Bằng tinh thần trách nhiệm và tình yêu với nghề, Chi bộ Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đang từng ngày học và làm theo Bác bằng những việc làm cụ thể, thiết thực trong gìn giữ lịch sử, văn hóa và lan tỏa hình ảnh Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại đến với mỗi người dân. Những nỗ lực không ngừng nghỉ của Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã giúp cho di sản văn hóa của dân tộc được bảo tồn và phát huy, góp phần xây dựng một xã hội văn minh và phát triển.

Có thể thấy, Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc. Thông qua các hoạt động thiết thực, đơn vị đã giúp cho thế hệ trẻ và cộng đồng hiểu rõ hơn về lịch sử và truyền thống của dân tộc, từ đó hun đúc tình yêu quê hương, đất nước. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc.

]]>