#công nghiệp chế biến – chế tạo – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:31:00 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #công nghiệp chế biến – chế tạo – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Công nghiệp chế biến – chế tạo chuyển dịch tích cực https://doanhnhandautu.com/cong-nghiep-che-bien-che-tao-chuyen-dich-tich-cuc/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:01 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3784 Ngành công nghiệp chế biến - chế tạo đạt mức tăng trưởng giá trị cao nhất trong 4 ngành công nghiệp và tiếp tục có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu.]]>
Ngành công nghiệp chế biến – chế tạo đạt mức tăng trưởng giá trị cao nhất trong 4 ngành công nghiệp và tiếp tục có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu.
Công nghiệp chế biến – chế tạo chuyển dịch tích cực
Ảnh minh họa

Kết quả tích cực

Tốc độ tăng giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến – chế tạo đạt mức cao nhất trong 4 ngành công nghiệp (8% so với 5,5% của khai khoáng; 7% của sản xuất, phân phối điện; 6,4% của sản xuất nước, xử lý nước thải), góp phần lớn nhất vào tốc độ tăng toàn ngành công nghiệp (7,8%). Một số ngành công nghiệp chế biến – chế tạo cụ thể còn tăng cao hơn (như đồ uống, may mặc, da và các sản phẩm có liên quan, thuốc, hóa dược và dược liệu, chế biến gỗ, sản phẩm từ gỗ, tre, nứa, máy móc, phương tiện vận tải khác).

Nhiều sản phẩm công nghiệp chế biến – chế tạo tăng khá, như thủy sản chế biến, linh kiện điện thoại, ô tô, xăng dầu, thép, sơn, bột ngọt, giày dép, bia, thuốc lá…

Do tỷ lệ chi phí trung gian giảm, nên tốc độ tăng giá trị tăng thêm của công nghiệp chế biến – chế tạo cao hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất (8,1% so với 8%). Đây là kết quả tích cực của việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Do tốc độ tăng giá trị tăng thêm của công nghiệp chế biến – chế tạo cao hơn GDP, nên tỷ trọng công nghiệp chế biến – chế tạo trong GDP tăng và hiện chiếm 24,76%, cao hơn các năm trước (2015 là 20,96%; 2018 là 23,37%; 2019 là 23,79%; 2020 là 23,95%; 2021 là 24,82%) và cao hơn tỷ trọng về lao động (23,5%).

Cơ cấu công nghiệp chế biến – chế tạo theo trình độ công nghệ bước đầu có sự chuyển dịch tích cực. Năm 2020 so với năm 2015, công nghệ cao có tỷ trọng tăng về các chỉ tiêu số doanh nghiệp (12,9% so với 12,68%), số lao động (21,78% so với 18,12%), nguồn vốn (34,23% so với 30,16%), giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn (28,59% so với 26,89%), doanh thu thuần (42,8% so với 39,39%), lợi nhuận trước thuế (55,74% so với 54,93%). Trong khi đó, công nghệ thấp và trung bình giảm tương ứng. Đó là tiền đề để có công nghiệp theo xu hướng hiện đại vào năm 2025 và hiện đại vào năm 2030.

Hàng xuất khẩu do công nghiệp chế biến – chế tạo chiếm tỷ trọng tăng và hiện ở mức cao (từ 92,5% năm 2015 lên 96,2% năm 2021). Các mặt hàng của ngành này có kim ngạch lớn (trên 10 tỷ USD), như điện thoại 55,29 tỷ USD; máy tính và sản phẩm điện tử 55,24 tỷ USD; máy móc 45,72 tỷ USD; dệt may 37,5 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ 15,86 tỷ USD; phương tiện vận tải 12,06 tỷ USD.

Hạn chế, thách thức

So với những tiêu chí của nước công nghiệp (được định ra từ cách đây vài chục năm, nhằm đạt vào năm 2020), còn có tiêu chí chưa đạt, có tiêu chí phải nâng lên hoặc hạ xuống.

Một là, GDP bình quân đầu người phải đạt trên 5.000 USD. Năm 2022 đạt 4.110 USD, mục tiêu năm 2023 đạt 4.400 USD. Như thế, có thể phải nâng lên.

Hai là, tỷ trọng của công nghiệp chế biến – chế tạo trong GDP phải đạt trên 20%, nhưng năm 2022 đã đạt 24,76%, mục tiêu 2023 là 25,4 – 25,8%, nên cần đưa lên 28 – 30%.

Ba là, tỷ trọng của nông, lâm nghiệp – thủy sản/GDP còn dưới 10%, nhưng năm 2022 vẫn ở mức 11,88%, nên cần giảm nữa.

Bốn là, tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp – thủy sản còn 20 – 30% cũng cần được giảm, bởi 2022 còn chiếm 27,5%.

Năm là, tỷ lệ dân số thành thị đạt trên 50%, trong khi năm 2022 mới đạt 37,3% và còn thấp xa so với nhiều nước khác.

Sáu là, tỷ lệ lao động qua đào tạo (có bằng chứng chỉ) đạt trên 55%, trong khi 2021 mới đạt 26,2%.

Bảy là, Chỉ số Phát triển con người (HDI) đạt trên 0,7, trong khi từ năm 2019 đã đạt trên 0,7.

Tám là, Chỉ số Phát triển giới (GDI) đạt 0,32 – 0,38, trong khi năm 2020 đã đạt 0,375.

Một số vấn đề nổi cộm là công nghiệp hỗ trợ còn yếu, khi tỷ lệ của điện tử chuyên dùng và công nghệ cao chỉ đạt 5%; điện tử tin học viễn thông 15%… Cả nước chỉ có 300/1.800 doanh nghiệp công nghệ hỗ trợ tham gia chuỗi cung ứng của các công ty đa quốc gia.

Tính gia công lắp ráp, ngay cả với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn lớn. Công nghiệp hỗ trợ yếu, tính gia công lắp ráp cao làm cho thực thu thấp, thu nhập của lao động thấp, trong khi nhập khẩu lớn.

]]>
Phát triển 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng cho các tập đoàn đa quốc gia https://doanhnhandautu.com/phat-trien-2-000-doanh-nghiep-du-nang-luc-cung-ung-cho-cac-tap-doan-da-quoc-gia/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:24 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4240 Ngành công thương đặt mục tiêu đến năm 2030, có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia.]]>
Ngành công thương đặt mục tiêu đến năm 2030, có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia.
Ngành Công thương phấn đấu 2023 có 2.000 DN đủ năng lực cung ứng cho các Tập đoàn đa quốc gia.
Ngành công thương phấn đấu 2023 có 2.000 DN đủ năng lực cung ứng cho các Tập đoàn đa quốc gia.

Theo Tờ trình của Bộ Công thương về Đề án Tái cơ cấu ngành công thương giai đoạn đến 2030 gửi Chính phủ, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 30% vào năm 2030.

Về tái cơ cấu ngành công nghiệp với mục tiêu kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, khai thác triệt để thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và lợi thế thương mại để tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, giá trị gia tăng nội địa của sản phẩm.

Phấn đấu tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình quân 7,5%/năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng bình quân 8,5-9%/năm.

Tờ trình cũng nêu cụ thể, tập trung phát triển hoàn chỉnh hệ thống sản xuất công nghiệp trong nước thông qua việc nâng cấp và phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của các ngành công nghiệp.

Chú trọng nội địa hoá chuỗi cung ứng các ngành công nghiệp để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tăng cường tính tự chủ, nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. 

Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp từ các ngành thâm dụng tài nguyên, lao động sang các ngành thâm dụng vốn và công nghệ, các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp các bon thấp; từ các công đoạn có giá trị gia tăng thấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực.

Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 30% với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 9-10%/năm; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên 45%.

Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng nhằm xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, hiện đại, đảm bảo năng lực tự chủ, đáp ứng cơ bản nhu cầu về tư liệu sản xuất của nền kinh tế và nâng cao vị thế của một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp toàn cầu.

Trong đó, tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý nhằm hỗ trợ, ưu tiên phát triển các ngành: công nghiệp cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, vật liệu, công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

Hình thành và phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp tập trung thành các tổ hợp sản xuất hoàn chỉnh quy mô lớn, có tính chuyên môn hóa cao theo chuỗi giá trị trong các lĩnh vực như: luyện kim, hoá chất, cơ khí chế tạo…. theo hướng công nghiệp sinh thái với việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Trên cơ sở đó chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hóa sản phẩm của ngành công nghiệp nền tảng, đảm bảo cung ứng cho nhu cầu thị trường trong nước. Phát triển các sản phẩm thép hợp kim, thép chế tạo; các sản phẩm hóa dầu, hóa chất cơ bản, phân bón, cao su kỹ thuật, hóa dược, hóa chất tiêu dùng..

Bộ Công thương nhìn nhận, giai đoạn tiếp theo ngành công nghiệp tiếp tục phát triển và nâng cấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu như dệt may, da giày, điện tử, thực phẩm… gắn với tăng cường cải tiến quy trình và công nghệ sản xuất thông minh, tự động hóa.

Mở rộng quy mô phát triển để khai thác có hiệu quả tiềm năng thị trường xuất khẩu gắn liền với việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đảm bảo sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguyên, vật liệu và năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính.

Tăng cường tiếp cận nguyên liệu đầu vào chất lượng cao hơn và nâng cao năng lực cho các dịch vụ hỗ trợ như tìm nguồn cung ứng, thiết kế, phát triển sản phẩm và tiếp thị mang lại cơ hội chuyển sang các phân khúc có giá trị tăng lớn hơn trong chuỗi giá trị đối với ngành dệt may, da giày.

Cần chú trọng tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp trong nước trong ngành công nghiệp điện tử nhằm thực hiện chuyển giao công nghệ và năng lực quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh; tập trung nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước về quản lý và kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng để kết nối tốt hơn với các doanh nghiệp FDI, từng bước tham gia vào quá trình thiết kế và sản xuất linh kiện của ngành.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn như: điện tử, ô tô, dệt may, da giày, cơ khí, công nghệ cao… Đồng thời tăng cường khả năng đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các hiện định thương mại tự do (FTA).

Phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ đáp ứng 70% nhu cầu sản xuất trong nước.
Tăng cường kết nối giữa các nhà cung cấp trong nước với các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam nhằm tăng cường khả năng tham gia mạng lưới sản xuất trong nước và toàn cầu của các doanh nghiệp nội địa.

Phấn đấu đến năm 2030, có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia.

Nguồn: Đề án Tái cơ cấu ngành công thương


]]>