# chính sách tiền tệ – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:38:13 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # chính sách tiền tệ – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Lãi suất – thách thức lớn nhất của chính sách tiền tệ năm 2023 https://doanhnhandautu.com/lai-suat-thach-thuc-lon-nhat-cua-chinh-sach-tien-te-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:31 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2397 Lạm phát, tỷ giá năm 2023 dự báo không quá đáng ngại, song lãi suất sẽ là câu chuyện nóng nhất của thị trường lẫn cơ quan quản lý.]]>
Lạm phát, tỷ giá năm 2023 dự báo không quá đáng ngại, song lãi suất sẽ là câu chuyện nóng nhất của thị trường lẫn cơ quan quản lý.
Lãi suất – thách thức lớn nhất của chính sách tiền tệ năm 2023

Dư địa chính sách tiền tệ giảm dần

Năm 2022 đã khép lại với nhiều biến động lớn trong lĩnh vực ngân hàng. Năm 2023, theo dự báo của TS. Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN), kinh tế toàn cầu có khả năng đi vào suy thoái lớn. Tuy vậy, dự báo Fed còn tiếp tục xu hướng tăng lãi suất trong năm 2023 và duy trì lãi suất ở mức cao cho đến cuối 2024.

“Dù mức độ và tác động do Fed tăng lãi suất sẽ không còn dữ dội, nhanh, mạnh như năm 2022 nhưng mức độ tác động đến nền kinh tế còn dai dẳng trong năm 2023. Ngoài ra, trong nước, lạm phát lõi có dấu hiệu đáng quan ngại, mức tăng liên tục, mạnh khiến điều hành chính  sách tiền tệ đối với 2023 không thể chủ quan”, TS. Quang nhận định.

Trong khi đó, nhận định về thách thức chính sách điều hành năm 2023, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn – Chính sách Tiền tệ Quốc gia cũng cho rằng, với khả năng FED tiếp tục tăng lãi suất, áp lực lãi suất và tỷ giá trong nước vẫn còn khá lớn. Trong khi đó, dư địa điều hành chính sách tiền tệ giảm dần do các công cụ đã được NHNN sử dụng gần hết, đặc biệt lãi suất điều hành đã tăng 2 lần với mức độ lớn.

Ngoài ra, thanh khoản ngân hàng không còn dồi dào, hệ số an toàn vốn (CAR) mỏng và nợ xấu có nguy cơ tăng cũng là những thách thức lớn trong điều hành chính sách tiền tệ năm nay, theo nhận định của TS. Cấn Văn Lực.

Giảm lãi suất phải là trọng tâm chính sách tiền tệ năm 2023

Trao đổi với Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa lại cho rằng, áp lực lạm phát, tỷ giá toàn cầu năm 2023 sẽ giảm dần. Kinh tế Mỹ và Trung Quốc đang có dấu hiệu phục hồi mạnh hơn dự báo. Tuy  nhiên, thách thức lớn nhất với nền kinh tế nước ta chính là các yếu tố nội tại. 

Riêng với chính sách tiền tệ, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, thách thức lớn nhất năm tới chính là vấn đề lãi suất.

Mặc dù NHNN cho rằng, mặt bằng lãi suất ở Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều nước trong khu vực, song TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, lãi suất thực ở Việt Nam hiện nay đang quá cao.

Cụ thể, lãi suất tiền gửi trung bình kỳ hạn 1 năm hiện nay khoảng 9,4%, nếu trừ đi lạm phát bình quân (3,15%) thì đang ở thực dương 6,25%. Còn lãi suất cho vay 1 năm hiện nay trung bình 12,5%, trừ đi lạm phát thì đang trên 9,3%, nếu cộng với biên độ biến động tỷ giá USD 3,81% thì đang dương 13%. Lãi suất thực (cho vay) trên 13%, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, là mức lãi suất cho vay “cao nhất nhì thế giới”, khiến doanh nghiệp khó cạnh tranh.

Với mặt bằng lãi suất này, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, doanh nghiệp nội địa sẽ đuối sức, nhường chỗ cho doanh nghiệp nước ngoài – vốn không phải chịu lãi suất cao của hệ thống ngân hàng Việt Nam.  

Chính vì vậy, theo chuyên gia này, trọng tâm chính sách của NHNN và Chính phủ năm 2023 cần phải đi theo hướng giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế. Muốn giảm lãi suất, đồng nghĩa cung tiền phải tăng lên.  

Liên quan đến câu chuyện lãi suất và tăng cung tiền, TS. Phạm Chí Quang cho biết, thời gian qua, Việt Nam liên tục nhận được nhiều cảnh báo từ các Tổ chức quốc tế như World Bank, IMF về mức độ rủi ro an toàn hoạt động ngân hàng do tỷ lệ đòn bẩy tài chính quốc gia (tổng dự nợ tín dụng trong GDP) thuộc nhóm cao nhất trong các nước có thu nhập trung bình thấp. Tỉ lệ này ở Việt Nam là 124%. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng trên 12%/năm thời gian tới, tỷ lệ này sẽ còn gia tăng.

Trong bối cảnh năng lực tài chính của Việt Nam chưa đáp ứng được chuẩn mực quốc tế (nhiều ngân hàng chưa đáp ứng đầy đủ quy định về Basel II mà vẫn còn trong lộ trình triển khai) thì tỷ lệ đòn bẩy này tăng dẫn tới nhiều rủi ro.

“Xu hướng lãi suất quốc tế còn tăng, Việt Nam khó đi ngược dòng chảy chung của thế giới. Việc giảm lãi suất thời gian tới là nỗ lực lớn để duy trì ổn định mặt bằng lãi suất thị trường… Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt của ngành ngân hàng”, TS. Phạm Chí Quang nhận định.

]]>
Thống đốc: Tín dụng năm 2022 ước tăng 14,5%, ưu tiên nhất năm 2023 là đảm bảo thanh khoản https://doanhnhandautu.com/thong-doc-tin-dung-nam-2022-uoc-tang-145-uu-tien-nhat-nam-2023-la-dam-bao-thanh-khoan/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:16 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2575 Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định, mục tiêu ưu tiên cao nhất của điều hành chính sách tiền tệ năm 2023 là đảm bảo thanh khoản, giữ vững ổn định, an toàn hệ thống ngân hàng.]]>
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định, mục tiêu ưu tiên cao nhất của điều hành chính sách tiền tệ năm 2023 là đảm bảo thanh khoản, giữ vững ổn định, an toàn hệ thống ngân hàng.
T
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng

Ba bài học lớn cho điều hành chính sách tiền tệ năm 2022

Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương sáng 3/1/2023, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, năm 2022 là một năm vô cùng thách thức đối với việc điều hành chính sách tiền tệ khi cùng một lúc chịu áp lực bởi xu hướng tăng lạm phát, lãi suất, đồng đô la Mỹ trên phạm vi toàn cầu và những khó khăn của thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp ở trong nước.

NHNN đã phải đứng trước ba bài toán khó. Thứ nhất, làm thế nào để điều hành tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế mà vẫn phải đảm bảo an toàn hệ thống trong khi một số chỉ tiêu tiền tệ như tỷ lệ tín dụng/huy động vốn và dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã và đang ở ngưỡng cảnh báo.

Thứ hai, làm thế nào ổn định được thị trường ngoại hối khi nền kinh tế của ta có độ mở cửa lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng Đô la tăng giá mạnh, Việt Nam đang trong giai đoạn giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ của phía Hoa kỳ…

Thứ ba, làm thế nào ổn định được an toàn hệ thống khi thanh khoản hệ thống và niềm tin của thị trường chịu tác động mạnh bởi sự cố SCB chưa từng có tiền lệ.

Với sự bình tĩnh, chủ động trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và việc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, chính sách của NHNN, kết thúc năm 2023, chính sách tiền tệ đã có những đóng góp quan trọng, góp phần củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô. Đó là: góp phần kiểm soát lạm phát ở mức thấp (bình quân 3,15%), tăng trưởng kinh tế phục hồi ở mức cao (8,02%); tín dụng ước tăng khoảng 14,5%; thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định (VND mất giá 3,5%, mặt bằng lãi suất tăng khoảng gần 1%/năm, là mức biến động thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới và khu vực), thanh khoản hệ thống cơ bản được đảm bảo…

Đặc biệt, tháng 11 vừa qua, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam ra khỏi Danh sách giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ, đồng thời, đánh giá cao công tác điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của NHNN Việt Nam.

Thống đốc khẳng định, từ thực tiễn năm 2022, NHNN cũng đã rút ra được 3 bài học lớn.

Thứ nhất, trong bối cảnh nền kinh tế của chúng ta có độ mở cửa lớn, những biến động kinh tế thế giới tác động tới kinh tế, tiền tệ trong nước là không tránh khỏi. Điều quan trọng là phải chuẩn bị tâm thế cho sự ứng phó linh hoạt với những biến động, từ đó nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập.

Thứ hai, NHNN luôn kiên định mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ nhằm “góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế”, nhưng tùy theo diễn biến tình hình để xác định trọng tâm, trọng điểm ưu tiên trong từng thời điểm. Thực tế, từ tháng 10 khi sự cố SCB xảy ra tác động mạnh tới thanh khoản hệ thống và thị trường, NHNN đã ưu tiên cao nhất và tập trung thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định thị trường ngoại hối.

Thứ ba, mỗi một chính sáchđều có tác động khác nhau đối với các khu vực của nền kinh tế, điều quan trọng là cần bản lĩnh, ứng phó linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến tình hình, cân nhắc thời điểm, liều lượng phù hợp của từng công cụ, giải pháp để hóa giải khó khăn nhằm đạt được mục tiêu.  

Ưu tiên đảm bảo an toàn hệ thống

Theo Thống đốc NHNN, năm 2023 tình hình kinh tế thế giới và trong nước vẫn còn nhiều khó khăn. Người đứng đầu Quỹ tiền tệ quốc tế vừa mới nhận định 1/3 nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng bởi suy thoái, và cảnh báo thế giới sẽ đối mặt với một năm 2023 khó khăn hơn.

Trong nước, lạm phát cơ bản đang có xu hướng tăng cao trong khi vẫn cần thực hiện các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế, những khó khăn trên thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp chưa được giải quyết căn bản.

Bởi vậy, lãnh đạo NHNN cho hay, năm 2023, NHNN sẽ tập trung vào một số mục tiêu lớn.

Mục tiêu đầu tiên là tập trung các giải pháp, ưu tiên cao nhất đảm bảo thanh khoản, giữ vững ổn định, an toàn hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, tiếp tục điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Thứ ba, điều hành tín dụng phù hợp, góp phần duy trì đà phục hồi của nền kinh tế; hướng dòng vốn tín dụng tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên;Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Thứ tư, phối hợp các Bộ, ngành để tham mưu các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các thị trường.

Gỡ thanh khoản nền kinh tế cần thúc đẩy đầu tư công, điều chỉnh giá bất động sản…

Thống đốc cũng khẳng định, chính sách tiền tệ với bản chất là ngắn hạn nên cần hạn chế sử dụng để giải quyết các vấn đề mang tính trung dài hạn. Để tháo gỡ khó khăn, ách tắc thanh khoản trong nền kinh tế, cần thúc đẩy giải ngân đầu tư công, thực hiện giảm, giãn thuế, điều chỉnh giá bất động sản…để khơi thông dòng tiền giữa các khu vực trong nền kinh tế.

“Nếu quá phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng có thể gây hệ lụy và rủi ro trong tương lai vì các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng của Việt Nam đã và đang ở ngưỡng cảnh báo”, Thống đốc nhấn mạnh.

Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, lãnh đạo NHNN cho biết, ngành ngân hàng tập trung thực hiện các giải pháp cải cách, đơn giản thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp cận vốn.

Tuy nhiên, đối với nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn, cần các giải pháp chính sách hỗ trợ khác từ phía nhà nước như bảo lãnh tín dụng, các các chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được thực thi hiệu quả…

]]>
Đáng lo nhất là lãi suất cao và sở hữu chéo ngân hàng https://doanhnhandautu.com/dang-lo-nhat-la-lai-suat-cao-va-so-huu-cheo-ngan-hang/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:40 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3364 Lãi suất cho vay thực đang ở mức quá cao và mối nguy sở hữu chéo tích tụ hàng chục năm đang đe dọa hệ thống là hai thách thức lớn nhất với chính sách tiền tệ hiện nay.]]>
Lãi suất cho vay thực đang ở mức quá cao và mối nguy sở hữu chéo tích tụ hàng chục năm đang đe dọa hệ thống là hai thách thức lớn nhất với chính sách tiền tệ hiện nay.

Đó là nhận định của TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia khi chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư.

TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia
TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia.

Lãi suất cho vay đang quá sức doanh nghiệp

Theo ông, đâu là những thách thức lớn nhất với điều hành chính sách tiền tệ năm 2023?

Chúng ta thấy, những áp lực từ bên ngoài đang giảm dần: lạm phát toàn cầu đang giảm, USD giảm giá, kinh tế Mỹ và Trung Quốc phục hồi tốt hơn dự báo… Năm 2022, kinh tế thế giới đối mặt với nhiều bất thường, song không phải là khủng hoảng cấu trúc, mà chỉ là một “tai nạn”, nên sau khi tai nạn qua đi, tôi nghĩ, khả năng phục hồi kinh tế toàn cầu sẽ khả quan.

Thách thức lớn nhất của nền kinh tế năm 2023 nằm chính ở các yếu tố nội tại trong nước. Với chính sách tiền tệ, áp lực lạm phát, tỷ giá năm 2023 không đáng lo, song thách thức lớn nhất là lãi suất. Câu hỏi chúng ta cần phải làm rõ là tại sao lạm phát ở Việt Nam thấp, tiền đồng mất giá gần thấp nhất thế giới, song lãi suất lại ở nhóm cao nhất thế giới?

Lãi suất trong nước vọt tăng mạnh từ tháng 9/2022 đến nay sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) 2 lần tăng lãi suất điều hành, song liệu có đúng là lãi suất Việt Nam thuộc vào nhóm cao nhất thế giới, thưa ông?

Muốn biết lãi suất có cao hay không, phải nhìn vào lãi suất thực, tức là lãi suất đã trừ đi lạm phát. Lãi suất tiền gửi một năm hiện khoảng 9,4%, trừ đi lạm phát bình quân 3,15%, thì lãi suất tiền gửi thực dương hơn 6,2%. Lãi suất bình quân 12,5%/năm (kỳ hạn 1 năm), sau khi trừ đi lạm phát thì ra lãi suất thực là 9,35%/năm.

Trong khi đó, tại Mỹ, lạm phát năm 2022 ước khoảng 8%, lãi suất cho vay khoảng 4%/năm, có nghĩa là lãi suất cho vay thực tại Mỹ đang ở mức âm 4%/năm. Như vậy, so với doanh nghiệp ở Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam đang phải chịu lãi suất cao hơn 13,35%. Nếu so sánh với châu Âu, lãi suất của Việt Nam còn cao hơn.

Chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, doanh nghiệp Việt Nam đang phải kinh doanh dưới áp lực lãi suất cho vay rất ghê gớm, làm sụt giảm sức cạnh tranh, nguy cơ bị đẩy lùi ngay tại thị trường nội địa, nhường chỗ cho doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang không phải chịu mặt bằng lãi suất cao.

Quay lại nghịch lý mà ông vừa đặt ra: lạm phát ở Việt Nam thấp, tiền đồng mất giá gần thấp nhất thế giới, song lãi suất lại ở nhóm cao nhất thế giới. Tại sao lại như vậy và liệu có giải pháp nào kéo lãi suất giảm xuống không?

Lãi suất ở nước ta tăng mạnh thời gian qua không phải do lạm phát hay room tín dụng, mà là do cung tiền. Lãi suất tăng do cung tiền giảm. Vì vậy, muốn kéo lãi suất giảm, thì đồng nghĩa cung tiền phải tăng lên. Còn room tín dụng chỉ là biện pháp hành chính để chúng ta khống chế tăng trưởng tín dụng của NHNN trên nền tảng cung tiền cố định.

Năm 2022, cung tiền của Việt Nam chỉ tăng hơn 7%, trong khi tăng trưởng GDP theo giá hiện hành (GDP danh nghĩa) ước tăng 11,2%. Điều này có nghĩa là, cung tiền năm ngoái thiếu so với tăng trưởng GDP theo giá hiện hành. Nói cách khác, Việt Nam đang thiếu lượng tiền lưu thông để tăng trưởng GDP danh nghĩa.

Sở dĩ trong nửa đầu năm 2022, nền kinh tế không thiếu tiền là do năm 2021, tăng trưởng GDP danh nghĩa chỉ 4,6% (gồm 2,5% tăng trưởng GDP và 1,9% lạm phát), nhưng cung tiền lại tăng tới 11%. Cung tiền năm 2021 tăng mạnh những tháng cuối năm do NHNN tăng mua ngoại tệ, nên đã hỗ trợ cho 2 quý đầu năm 2022, giúp nền kinh tế không rơi vào tình trạng nghẽn mạch thanh khoản.

Tuy vậy, bước sang những tháng cuối năm 2022, tình trạng nghẽn mạch này đã xuất hiện. Lượng tiền năm 2022 bơm ra nền kinh tế bị hụt, không thể hỗ trợ cho năm 2023. Đây là điều NHNN cần phải tính toán sớm vì độ trễ của chính sách tiền tệ rất lớn, có thể lên tới 6 tháng đến 1 năm. Hơn nữa, vòng quay tiền tệ của Việt Nam rất thấp (năm 2022 chỉ khoảng 0,6 vòng/năm, trong khi tại Mỹ là 1,6 – 2 vòng/năm).

Ngoài ra, nên nhớ rằng, năm 2022, GDP nước ta tăng 8,02%, nhưng lượng tiền cần cho tăng trưởng kinh tế năm 2022 không phải là lớn, do dựa trên nền tảng một số quý năm 2021 tăng trưởng âm. Còn năm 2023, dựa trên nền tảng tăng trưởng mạnh của năm 2022, để tăng trưởng 6,5%, nền kinh tế cần lượng cung tiền rất lớn. Đây là điều NHNN cần tính toán kỹ và có kế hoạch chủ động.

Việc tăng cung tiền, theo ông, có đe dọa đến lạm phát năm nay?

Cung tiền tăng sẽ đẩy lạm phát tăng lên, nên NHNN phải tính toán ở mức độ hợp lý. Năm nay, Chính phủ đã trình Quốc hội chỉ tiêu lạm phát không quá 4,5%, có nghĩa là chấp nhận lạm phát cao hơn năm ngoái. Đây là “khung” thuận lợi để NHNN tăng cung tiền, giảm lãi suất.

Thực tế, tôi cho rằng, lạm phát năm nay có thể khó lên tới mức 4,5%, vì hiện nay, cầu tiêu dùng đang giảm khá nhanh trong nước. Hiện nay, doanh nghiệp đang rất khó khăn, chúng ta không thể “treo” lãi suất cao như vậy mãi được. Theo tôi, lãi suất huy động thực chỉ khoảng 2-3% là phù hợp. Có nghĩa là, lạm phát 4% thì lãi suất huy động chỉ 6-7%/năm là hợp lý. Khi đó, lãi suất cho vay không trở nên quá sức với doanh nghiệp.

Việc tăng cung tiền, theo ông, có đe dọa đến lạm phát năm nay?
Lãi suất tại Việt Nam hiện cao hơn nhiều so với mặt bằng chung trên thế giới. Ảnh: Đức Thanh

Sở hữu chéo vẫn là vấn đề đáng lo nhất

Tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng mới đây, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, mục tiêu quan trọng nhất năm 2023 là phải đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống ngân hàng. Để làm được điều này, đâu là yếu tố then chốt, thưa ông?

Muốn giữ được an ninh của hệ thống ngân hàng, điều quan trọng nhất là phải giữ được thị trường tài sản phục hồi, đồng thời cũng phải xử lý được vấn đề tồn tại lâu nay của hệ thống ngân hàng Việt Nam là sở hữu chéo.

Lâu nay, cội nguồn mọi cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Việt Nam đều chỉ có duy nhất một nguyên nhân, đó là sở hữu chéo. Tôi đã làm việc trong lĩnh vực ngân hàng cả cuộc đời và chưa thấy cuộc khủng hoảng nào xảy ra với lĩnh vực ngân hàng mà không xuất phát từ nguyên nhân này.

Phát hiện sở hữu chéo không hề đơn giản. Có hiện tượng sở hữu chéo thanh tra ngân hàng có thể nhìn thấy, song cũng có những biểu hiện thì chỉ khi cơ quan an ninh điều tra mới phát hiện ra được.

Ví dụ, có tập đoàn thành lập tới hàng trăm doanh nghiệp, cơ quan thanh tra giám sát của NHNN có thể nhìn thấy, nhưng không có chế tài để theo dõi, giám sát hết được, trong khi đây là lại là gốc rễ rủi ro an ninh tiền tệ – ngân hàng. Nếu giám sát ngân hàng không bằng “nhãn quan” an ninh, thì chúng ta sẽ còn phải chống chọi với các cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai.

Ông vừa nói, giữ thị trường tài sản là một trong các yếu tố đảm an ninh hệ thống ngân hàng. Thực tế năm 2022, những sự cố trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản khiến không ít ngân hàng khó khăn, thậm chí có ngân hàng rơi vào diện kiểm soát đặc biệt. Theo ông, chúng ta ứng xử ra sao với bất động sản thời gian tới?

Thị trường bất động sản hiện nay chưa đến mức khủng hoảng, song đang trong tình trạng “bóng xì hơi” đáng lo ngại.

Việt Nam đang thiếu nghiêm trọng nguồn cung bất động sản, muốn giải quyết, cần phải có đất (dự án, quy hoạch) và có tiền. Bên cạnh đó, quá trình hình thành dự án phải nhanh. Hiện nay, nhiều dự án mất 7-10 năm mới cấp được giấy phép xây dựng, thì chúng ta đang tự làm khó mình. Chính vì khan hiếm nguồn cung, nên thời gian qua, hệ thống đầu cơ mới vào cuộc.

Chính phủ đang có những động thái ráo riết nắn chỉnh và tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Tuy vậy, tôi cho rằng, trước mắt, cần có ngay những giải pháp để làm dịu tình hình, phục hồi lại lòng tin của các nhà đầu tư và người dân, từ đó phục hồi thị trường trái phiếu doanh nghiệp, làm dịu tình trạng nợ xấu của các ngân hàng. Theo đó, đầu tiên, cần phải thanh lọc các doanh nghiệp, dự án tốt và tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, dự án này phát triển, giống như cách Trung Quốc đang làm. Nếu những doanh nghiệp xứng đáng được hỗ trợ phục hồi, thì niềm tin của dân chúng sẽ trở lại nhanh hơn.

Tóm lại, để giải quyết tình trạng của thị trường bất động sản hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp.

Một là, tăng lượng dự án được cấp phép.

Hai là, tăng tín dụng, rót vốn hỗ trợ các doanh nghiệp tốt có khả năng phục hồi.

Hai yếu tố trên sẽ giúp thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp và chứng khoán hồi phục, nhà đầu tư lấy lại niềm tin.

Nếu đặt lên bàn cân, ông cho rằng, câu chuyện lãi suất hay an ninh tiền tệ là thách thức lớn nhất với điều hành chính sách tiền tệ năm 2023?

Hiện nay, NHNN đã tương đối vững vàng trong việc điều hành chính sách tiền tệ như thế nào để tránh lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô. Điều tôi lo ngại nhất là an ninh hệ thống ngân hàng và công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, bởi sở hữu chéo, sở hữu lũng đoạn khó nhận diện, song lại gây ra nguy cơ rất lớn cho hệ thống. Mối nguy đó tích tụ hàng chục năm nay và đang ở mức đáng báo động.

Để xảy ra tình trạng này cũng không hoàn toàn do lỗi của doanh nghiệp. Có một thực tế là, chính sách của chúng ta vẫn chưa hướng được các doanh nghiệp tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu, dài hạn, như công nghiệp hóa. Một khi chính sách chưa hướng được doanh nghiệp đầu tư vào các mục tiêu dài hạn, thì doanh nghiệp sẽ tập trung vào các mục tiêu ngắn hạn, như bất động sản, theo đó, họ sẽ phải đẻ ra hàng loạt công ty con để vay vốn ngân hàng.

Mặc dù Luật Các tổ chức tín dụng đã có quy định về cho vay với người liên quan, tránh ông chủ vay tiền cho các công ty con, song các tập đoàn lách quy định bằng việc đẻ ra hàng trăm công ty con để vay tiền. Nói cách khác, luật chúng ta đã có, song chưa làm được nhiệm vụ trinh sát, chưa nói đến “đánh trận”. Vì vậy, vấn đề an ninh tiền tệ, an toàn hệ thống phải là trọng tâm xử lý của NHNN và phải tập trung nguồn lực thật sự không chỉ năm 2023, mà còn nhiều năm tới, vì xử lý sở hữu chéo không thể hoàn thành trong 1-2 năm.

Thời gian qua, NHNN đã có nhiều nỗ lực trong thanh tra, giám sát ngân hàng, song dường như chưa thể xoay chuyển được tình thế để đáp ứng được một hệ thống ngân hàng lành mạnh, hướng được tới các mục tiêu lớn trong tương lai, như công nghiệp hóa đất nước. Theo tôi, đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng NHNN, mà cả bộ máy Chính phủ, Quốc hội phải vào cuộc mạnh mẽ hơn trong những năm tới. Chỉ khi giữ được an ninh tiền tệ, thì mới giữ được niềm tin của dân chúng, giúp cho nền kinh tế phát triển ổn định.
]]>
Còn dư địa để lãi suất quay đầu? https://doanhnhandautu.com/con-du-dia-de-lai-suat-quay-dau/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:23 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3552 Tháng 5/2023 có thể là lần tăng lãi suất cuối cùng của Fed trong năm 2023 sau đó duy trì lãi suất ổn định đến hết năm,Đây có thể là thời điểm thuận lợi để Việt Nam đổi chiều chính sách.]]>
Tháng 5/2023 có thể là lần tăng lãi suất cuối cùng của Fed trong năm 2023 sau đó duy trì lãi suất ổn định đến hết năm,Đây có thể là thời điểm thuận lợi để Việt Nam đổi chiều chính sách.
Còn dư địa để lãi suất quay đầu?

Phát biểu tại Diễn đàn Kịch bản Kinh tế Việt Nam 2023, ông Nguyễn Xuân Thành, Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, trước những khó khăn, thách thức trong bối cảnh chung thế giới, Việt Nam vẫn có “cửa hẹp” trong năm nay để có thể đổi chiều chích sách và giải quyết được những  khó khăn trong nội tại của nền kinh tế Việt Nam khi các điều kiện bên ngoài cho phép.

Điều kiện cho phép ở đây, theo ông Thành, là Fed có thể giảm tần suất tăng lãi suất xuống chỉ còn 3 lần trong năm 2023, mức tăng lãi suất của Fed tháng 2/2023 chỉ khoảng 0,25 điểm, thay vì 0,5 điểm kỳ điều chỉnh trước đó.

“Thời điểm đầu tháng 5 khả năng rất cao là lần tăng lãi suất cuối cùng, sau đó sẽ duy trì ở mức đỉnh lãi suất đồng USD trên thị trường liên ngân hàng từ 5-5,25% cho đến cuối năm 2023. Như vậy, cuối tháng 5 sẽ có dư địa cho Việt Nam do chúng ta không phải chạy đua lãi suất trong nước với đồng USD, áp lực tỷ giá qua đi. Đấy cũng là dư địa để chúng ta đổi mới chính sách, ổn định vĩ mô”, ông Nguyễn Xuân Thành nhận định.

Ngoài yếu tố Fed, việc Trung Quốc mở cửa dự đoán cũng tác động tích cực đến xuất khẩu của Việt Nam. Tuy vậy, chuyên gia này cho rằng, Việt Nam không nên chờ đợi thụ động.

Trong khi đó, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế dự đoán, năm 2023, Fed chỉ tăng lãi suất 2 lần sau đó sẽ dừng lại và có thể cân nhắc bắt đầu giảm lãi suất từ quý 1/2024, nếu tình hình kinh tế Mỹ không được tốt.

“Các quốc gia ở châu Âu, Anh sẽ có độ trễ hơn khoảng một quý. Các quốc gia ở Châu Á, trong đó có Việt Nam cũng trễ hơn so với Mỹ một quý khi điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất”, ông Lực đánh giá.

Ngoài áp lực từ Fed giảm, trong nước, theo TS. Cấn Văn Lực, bức tranh giá cả hàng hoá cũng hạ nhiệt, giá dầu đã qua đỉnh và dự báo giảm khoảng 10% trong năm 2023 trừ khi có những biến số bất thường.

Mặc dù vậy, NHNN vẫn rất tỏ ra rất thận trọng với áp lực lạm phát, nhất là trong bối cảnh thanh khoản hệ thống ngân hàng không còn mấy dồi dào như các năm trước.

TS. Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho hay, năm 2023,  mục tiêu xuyên suốt là điều hành chính sách tiền tệ là giữ được sự ổn định của dòng tiền, kiểm soát lạm phát. Từ mục tiêu đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ đạt được mục tiêu của nội bộ ngành là duy trì sự hoạt động lành mạnh, ổn định của ngành ngân hàng.

“Rất may cuộc khủng hoảng lần này rất khác hồi năm 2008. Ở thời điểm 2008, ngành ngân hàng chất lượng, quản trị thực sự có vấn đề và nợ xấu dâng cao. Chúng ta phải trải qua cuộc vật lộn tái cơ cấu hơn 10 năm vẫn chưa xong. Nhưng đến nay, mừng nhất ngành ngân hàng  có sức khoẻ tốt hơn, bảng cân đối tốt”, ông Quang chia sẻ.

Theo đó, vị Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho biết, năm 2023, Ngân hàng Nhà nước sẽ hành động theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong đó bất biến là kiểm soát lạm phát, còn cách thức điều hành thì rất linh hoạt   

]]>
Không loại trừ quyết sách bất ngờ của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản https://doanhnhandautu.com/khong-loai-tru-quyet-sach-bat-ngo-cua-ngan-hang-trung-uong-nhat-ban/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:43 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4004 Sau cú sốc dội vào thị trường tài chính toàn cầu trong tháng 12/2022, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tuần trước tiếp tục "chiếm spotlight" với động thái điều chỉnh kích thích kinh tế.]]>
Sau cú sốc dội vào thị trường tài chính toàn cầu trong tháng 12/2022, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tuần trước tiếp tục “chiếm spotlight” với động thái điều chỉnh kích thích kinh tế.
Bên ngoài trụ sở ngân hàng Trung ương Nhật Bản tại Tokyo. Ảnh: AFP
Bên ngoài trụ sở Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tại Tokyo. Ảnh: AFP

Hãng tin Bloomberg dẫn kết quả thăm dò cho biết, có đến 42/43 nhà kinh tế tin rằng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) sẽ giữ nguyên chính sách tiền tệ vào ngày 18/1 tới – thời điểm mà cơ quan này dự kiến công bố báo cáo triển vọng kinh tế.

Tuy nhiên, không ít chuyên gia khác lại lưu ý rằng vẫn chưa thể loại trừ khả năng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ hành động mạnh mẽ hơn.

Thông điệp của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đến nay vẫn chưa rõ ràng kể từ sau khi tăng gấp đôi trần lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm vào tháng 12/2022. Cụ thể, đồng yên đã tăng giá 4,8% trong ngày 20/12 khi Ngân hàng Trung ương Nhật Bản nâng trần lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm lên 0,5%, từ mức 0,25%. Trong khi đó, trái phiếu chính phủ Nhật Bản sụt giảm, còn tỷ lệ hoán đổi đối với khoản nợ chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 10 năm tăng lên 0,74% do các nhà đầu tư lo ngại Ngân hàng Trung ương nước này sẽ thực hiện các biện pháp tiếp theo để chấm dứt chính sách tiền tệ ôn hòa.

Từng mô tả một động thái như trên là tăng lãi suất đơn thuần, nhưng Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, ông Haruhiko Kuroda tháng trước đã lên tiếng cho rằng động thái trên nhằm cải thiện tính bền vững của khuôn khổ chương trình kích thích kinh tế.

Thống đốc Haruhiko Kuroda sẽ từ chức vào tháng 4 tới và có nhiều đồn đoán rằng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ tiến tới bình thường hóa chính sách, theo Bloomberg.

Sau động thái tăng gấp đôi trần lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, giáo sư Eisuke Sakakibara từ Đại học Aoyama Gakuin (Tokyo), cựu Thứ trưởng tài chính Nhật Bản (năm 1997 – 1999), suy đoán rằng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ còn gây sốc thêm lần nữa tại cuộc họp chính sách sắp tới. Theo dự đoán của GS. Sakakibara, đồng yên sẽ tăng giá lên mức 120 JPY đổi 1 USD khi Ngân hàng Trung ương Nhật Bản bắt đầu rút lại các thiết lập chính sách “siêu ôn hòa”.

Ở một góc nhìn khác, Wall Street Journal dẫn quan điểm của nhiều nhà phân tích cho rằng, sức ép lạm phát là căn nguyên chính dẫn đến quyết định gây sốc gần đây của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản. Họ lo ngại Thống đốc Kuroda sẽ một lần nữa thay đổi chính sách một cách đột ngột mà không phát tín hiệu xem xét kỹ lưỡng nào.

Thực tế, áp lực lên kiểm soát đường cong lợi suất của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản mới chỉ dâng lên kể từ tháng trước, bất chấp quyết định cho phép mở rộng dịch chuyển trái phiếu.

Ngày 13/1 vừa qua, lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Nhật Bản tăng vượt trần mới 0,5% lần đầu tiên sau cuộc họp chính sách ngày 20/12/2022. Diễn biến này buộc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản phải chi 3.200 tỷ yên (tương đương 24,9 tỷ USD) mua vào trái phiếu có lợi suất cố định để kiềm chế thị trường này và đây là mức chi kỷ lục trong ngày.

Các nhà giao dịch giờ đây tin chắc rằng, bất kỳ thay đổi nào trong chính sách tiền tệ của Nhật Bản cũng đều gây bất ngờ, cho nên cuộc họp chính sách của cơ quan này trong tháng 1/2023 trở nên khó đoán.

Các nhà kinh tế của Citigroup kỳ vọng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ loại bỏ hoàn toàn việc kiểm soát đường cong lợi suất.

Bloomberg dẫn lời truyền thông Nhật Bản cho hay Ngân hàng Trung ương nước này sẽ đánh giá tác dụng phụ của việc nới lỏng tiền tệ trên diện rộng, châm ngòi cho các động thái đầu cơ hơn nữa của giới đầu tư.

Giới thạo tin nói với Bloomberg rằng, các quan chức Ngân hàng Trung ương Nhật Bản nhận thấy không cần phải vội vàng đưa ra một động thái lớn khác để cải thiện hoạt động của thị trường trái phiếu và ngay bây giờ họ nên đánh giá tác động của việc điều chỉnh lợi suất vào tháng trước.

Các dự báo kinh tế hàng quý mới được công bố cùng với tuyên bố chính sách của phía Nhật Bản cũng sẽ được xem xét kỹ lưỡng. Các quan chức Nhật Bản được dự báo sẽ đưa ra triển vọng tốt hơn về tình hình giá cả trong những năm tài chính tiếp theo và dữ liệu lạm phát dự kiến công bố tuần này sẽ củng cố cho nhận định này.

Yuki Masujima, chuyên gia kinh tế cấp cao tại Bloomberg Economics cho rằng: “Để đẩy lùi áp lực thị trường từ một động thái bình thường hóa chính sách sớm, chúng tôi cho rằng, BOJ có thể thông báo rằng họ sẽ theo dõi cẩn trọng tỷ giá hoán đổi đồng yên trong một chiến thuật kích thích mới”.

]]>
Thủ tướng Nhật Bản sẽ đề cử Thống đốc Ngân hàng Trung ương mới vào tháng tới https://doanhnhandautu.com/thu-tuong-nhat-ban-se-de-cu-thong-doc-ngan-hang-trung-uong-moi-vao-thang-toi/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:51 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4678 Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida hôm 22/1 cho biết ông sẽ đề xuất một ứng viên cho vị trí Thống đốc của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) vào tháng tới.]]>
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida hôm 22/1 cho biết ông sẽ đề xuất một ứng viên cho vị trí Thống đốc của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) vào tháng tới.
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida. Ảnh: AFP
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida. Ảnh: AFP

Thủ tướng Nhật Bản đưa ra thông tin trên trong bối cảnh thị trường đang hoài nghi liệu Ngân hàng Trung ương Nhật Bản có thay đổi chính sách lãi suất cực thấp của Thống đốc đương nhiệm Haruhiko Kuroda hay không.

Phát biểu trên chương trình TV Tokyo, Thủ tướng Kishida cho biết ông sẽ xem xem việc thay thế Thống đốc đương nhiệm Kuroda dựa theo tình hình kinh tế vào tháng 4, nhưng khi bị thúc ép, ông cho rằng điều này có thể sẽ xảy ra vào tháng 2″.

Thống đốc Kuroda sẽ kết thúc nhiệm kỳ 5 năm vào ngày 8/4. Người đứng đầu Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã “mắc kẹt” với các chính sách kích thích tăng giá và tăng trưởng, ngay cả khi lạm phát leo lên mức cao nhất trong 41 năm qua và cao gấp đôi mục tiêu mà BOJ đề ra. Trong khi đó, các ngân hàng trung ương lớn khác lại liên tục tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát.

Nhiệm kỳ của hai Phó thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ kết thúc vào ngày 19/3 tới. Ba ứng viên được đề cử làm Thống đốc và Phó thống đốc đều phải được phê chuẩn bởi cả Hạ viện và Thượng viện.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản hôm 18/1 vẫn kiên định với chính sách siêu nới lỏng, bất luận các nhà đầu tư gần đây đã tìm cách nới trần lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của nước này. Ngay cả khi Thống đốc Kuroda tỏ ra lạc quan về vấn đề tăng lương, giới phân tích vẫn dự đoán Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ kết thúc thử nghiệm chính sách siêu nới lỏng trong năm nay.

Tháng trước, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã có quyết định gây sốc đối với thị trường tài chính toàn cầu sau khi tăng gấp đôi trần lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm lên 0,5%, từ mức 0,25%. Thời điểm đó, trái phiếu chính phủ Nhật Bản sụt giảm, còn tỷ lệ hoán đổi đối với khoản nợ chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 10 năm tăng lên 0,74% do các nhà đầu tư lo ngại Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ thực hiện các biện pháp tiếp theo để chấm dứt chính sách tiền tệ ôn hòa.

Bà Sayuri Shirai, cựu thành viên Hội đồng thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, người được coi là ứng viên cho chức Phó thống đốc, cho rằng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản nên điều chỉnh hoạt động mua trái phiếu chính phủ của mình trở nên linh hoạt hơn nhưng vẫn đảm bảo lợi suất thấp.

Hiện có nhiều suy đoán rằng sẽ có những thay đổi trong thỏa thuận chính sách giữa Ngân hàng Trung ương Nhật Bản và chính phủ nước này, theo đó Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cam kết đạt được mục tiêu lạm phát 2% càng sớm càng tốt, theo hãng tin Reuters.

Tuy nhiên, Thủ tướng Kishida cho rằng còn quá sớm để nói về việc liệu có cần thay đổi thỏa thuận hay không, nhưng ông cho biết sẽ không có thay đổi nào đối với “lập trường cơ bản” rằng chính phủ của ông và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cùng hợp tác “để đạt được tăng trưởng kinh tế liên quan đến tăng lương cơ cấu và mục tiêu bình ổn giá cả một cách ổn định và bền vững”.

]]>
Bloomberg: Fed sẽ tiếp tục hãm tăng lãi suất khi lạm phát chậm lại https://doanhnhandautu.com/bloomberg-fed-se-tiep-tuc-ham-tang-lai-suat-khi-lam-phat-cham-lai/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:05 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5303 Tuần này, các quan chức của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ hãm tốc độ tăng lãi suất thêm một lần nữa trong bối cảnh lạm phát có dấu hiệu chậm lại, theo Bloomberg.]]>
Tuần này, các quan chức của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ hãm tốc độ tăng lãi suất thêm một lần nữa trong bối cảnh lạm phát có dấu hiệu chậm lại, theo Bloomberg.
Trụ sở Fed tại Washington, DC. Ảnh: AFP/ TTXVN
Trụ sở Fed tại Washington, DC. Ảnh: AFP/ TTXVN

“Fed tiến thoái lưỡng nan”

Từ báo cáo việc làm vừa được công bố, có thể thấy nhu cầu lao động ở Mỹ đã trở nên ổn định và điều này giúp gia tăng cơ hội “hạ cánh mềm” cho nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Các quan chức Fed đã sẵn sàng tăng lãi suất liên bang thêm 25 điểm cơ bản vào ngày 1/2, lên ngưỡng từ 4,5% đến 4,75%. Nếu quyết định được đưa ra, thì đó sẽ là lần thứ hai Fed tăng lãi suất 25 điểm cơ bản, sau 4 đợt 75 điểm cơ bản trong năm 2022.

Động thái trên được kỳ vọng sau một loạt dữ liệu gần đây cho thấy chiến dịch chống lạm phát mạnh mẽ của Fed đang phát huy hiệu quả.

“Tôi hy vọng rằng chúng tôi sẽ tăng lãi suất thêm vài lần nữa trong năm nay, tuy nhiên, theo suy nghĩ của tôi, thời kỳ tăng lãi suất 75 điểm cơ bản chắc chắn đã qua”, ông Patrick Harker, Chủ tịch Chi nhánh Fed tại thành phố Philadelphia nêu trong bài phát biểu tuần trước. “Việc tăng 25 điểm cơ bản sẽ là phù hợp trong thời gian tới”, ông Harker nhấn mạnh.

Còn câu hỏi chính dành cho Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell, trong buổi họp báo sau cuộc họp chính sách sắp tới là Fed dự định tăng lãi suất bao nhiêu và các quan chức của họ cần xem xét điều gì trước khi dừng lộ trình tăng lãi suất.

Các quan chức Fed đã từng khẳng định rõ ràng rằng họ muốn thấy bằng chứng cho thấy tình trạng mất cân bằng cung – cầu trên thị trường lao động bắt đầu được cải thiện.

Theo các nhà kinh tế được Bloomberg khảo sát, hoạt động tuyển dụng ở Mỹ có thể chậm lại vào tháng 1/2023. Họ ước tính trong tháng 1/2023 các nhà tuyển dụng Mỹ đã tạo thêm 185.000 việc làm, thấp hơn đáng kể so với con số 223.000 vào tháng 12/2022. Ước tính trung bình của họ cho biết tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 1 đã tăng lên 3,6%, nhưng vẫn gần mức thấp nhất trong 5 thập kỷ. Trong khi đó, thu nhập trung bình mỗi giờ trong tháng 1 được kỳ vọng tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thấp hơn so với tháng trước.

Chỉ số PCE - thước đo mà Fed ưa dùng để theo dõi tình hình lạm phát Mỹ - có chiều hướng đi xuống trong vài tháng qua. Ảnh: Bloomberg
Chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) – thước đo mà Fed ưa dùng để đánh giá tình hình lạm phát Mỹ – có chiều hướng đi xuống trong vài tháng qua. Ảnh: Bloomberg

Fed cũng sẽ xem xét dữ liệu quan trọng khác liên quan đến lạm phát khi mà ngày mai 31/1 Bộ Lao động Mỹ công bố Chỉ số chi phí việc làm – một thước đo quy mô lớn về tiền lương và phúc lợi. Số liệu về cơ hội việc làm trong tháng 12/2022 cũng sẽ được công bố vào một ngày sau đó, tức ngày 1/2, cùng với kết quả khảo sát các nhà sản xuất trong tháng này.

“Fed đang đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan: Một mặt, dữ liệu lạm phát yếu hơn dự tính và các chỉ số lao động cho thấy đà tăng trưởng thị trường đã chậm lại trong tháng qua; mặt khác, các biến số tài chính đã giảm đi nên các nhà giao dịch tin rằng Fed sẽ sớm ‘quay xe’ và cắt giảm lãi suất. Dữ liệu sẽ lý giải cho các đợt tăng lãi suất nhỏ hơn của Fed, nhưng cơ quan này có thể sẽ thấy được rằng các biến số tài chính đã dịu bớt – trong khi lạm phát vẫn tăng cao hơn mục tiêu (2% – BTV) một cách khó chịu – như một lý do để hành động diều hâu”, ba chuyên gia kinh tế của Bloomberg – Anna Wong, Eliza Winger và Niraj Shah – nhận định.

Những quyết sách sau động thái của Fed

Sau động thái của Fed, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương Anh (BoK) được dự đoán sẽ tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản, nếu số liệu kinh tế của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) cho thấy lạm phát đã chậm lại và nền kinh tế này cũng chững lại.

Tại Trung Quốc, thị trường lao động đã trở lại hoạt động sau kỳ nghỉ dài ngày – Tết Nguyên đán, cùng với việc Bắc Kinh chú trọng thúc đẩy nền kinh tế trong năm 2023.

Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) chính thức của Trung Quốc trong tháng 1 dự kiến sẽ được công bố vào ngày mai 31/1. Nhiều khả năng chỉ số PMI tháng 1 có thể cải thiện đáng kể so với kết quả ảm đạm của tháng 12, nhưng lĩnh vực sản xuất chế tạo của Trung Quốc dự kiến vẫn chưa thể tăng trưởng rõ rệt trở lại.

Ngay sau đó, chỉ số PMI khắp châu Á cũng sẽ được công bố vào ngày 1/2. Đơn cử, Nhật Bản sẽ công bố sản lượng của các nhà máy, doanh số bán lẻ và số liệu thất nghiệp tháng 1. Dựa vào những con số này, giới phân tích sẽ có cái nhìn về sức mạnh phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản sau đợt suy thoái vào mùa hè vừa qua.

Ngoài ra, Ấn Độ sẽ công bố ngân sách mới nhất vào giữa tuần này trong bối cảnh các nhà hoạch định chính sách cố gắng duy trì tốc độ tăng trưởng đúng hướng và tăng cường kiểm soát thâm hụt.

Với Hàn Quốc, số liệu xuất khẩu mà quốc gia này công bố vào giữa tuần này, được kỳ vọng sẽ tạo xung lực cho thương mại toàn cầu. Ngay sau kim ngạch xuất khẩu, số liệu lạm phát cũng sẽ được công bố và Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc sẽ xem xét kỹ lưỡng số liệu này.

Tại Australia, Ngân hàng Trung ương nước này sẽ theo dõi biến động giá nhà và dữ liệu doanh số bán lẻ trước khi đưa ra quyết định lãi suất trong tuần này.

Còn tại châu Âu, các quyết định lãi suất sẽ là dòng tin thống trị ở châu lục trong tuần này khi các ngân hàng trung ương của Eurozone và Vương quốc Anh sẽ có cuộc họp đầu tiên của năm mới.

Trước thềm cuộc họp chính sách của Ngân hàng Trung ương châu Âu vào ngày 2/2, số liệu kinh tế sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách nhằm tìm kiếm cơ sở cho lộ trình chính sách.

Hiện đang có những quan điểm trái ngược nhau về tăng trưởng GDP mà Eurozone dự kiến công bố vào ngày 31/1. Nhiều ý kiến nghiêng về kết quả rằng kinh tế Eurozone suy giảm trong quý IV/2022 và báo hiệu một cuộc suy thoái, trong khi các dòng ý kiến khác băn khoăn liệu khu vực này có tránh được suy thoái hay không.

Lạm phát của Eurozone trong tháng 1 sẽ được công bố vào ngày 1/2 và đánh dấu sự chậm lại trong tháng thứ ba liên tiếp, mặc dù một số ít nhà kinh tế dự đoán lạm phát của khu vực này sẽ tăng tốc.

Theo Bloomberg, quyết định sắp tới của Ngân hàng Trung ương châu Âu gần như chắc chắn sẽ bao gồm việc tăng lãi suất 50 điểm cơ bản và thông tin chi tiết hơn về kế hoạch giảm bớt lượng trái phiếu nắm giữ qua nhiều năm nới lỏng định lượng.

Tương tự, quyết định ngày 2/2 của Ngân hàng Trung ương Anh cũng có thể bao gồm việc tăng lãi suất 50 điểm cơ bản. Nếu đúng vậy, nó sẽ kéo dài quá trình thắt chặt tiền tệ nhanh nhất của Vương quốc Anh trong 3 thập kỷ qua. Mặc dù lạm phát đã suy giảm trong hai tháng qua, nhưng nó vẫn cao gấp 5 lần so với mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương Anh.

Tại khu vực Mỹ La-tinh, tuần trước Mexico đã trở thành nền kinh tế lớn đầu tiên trong khu vực công bố số liệu tăng trưởng quý IV/2022. Hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng GDP của Mexico ghi nhận sụt giảm trong quý thứ ba liên tiếp và nhiều người dự báo nền kinh tế này sẽ đối mặt một cuộc suy thoái nhẹ trong năm 2023.

]]>
Chủ tịch Fed: Đừng hy vọng cắt giảm lãi suất trong năm 2023 https://doanhnhandautu.com/chu-tich-fed-dung-hy-vong-cat-giam-lai-suat-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:53 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5810 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho biết cơ quan này đã tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản, nhưng vẫn còn "quá sớm" để tuyên bố chiến thắng lạm phát.]]>
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho biết cơ quan này đã tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản, nhưng vẫn còn “quá sớm” để tuyên bố chiến thắng lạm phát.
Ông Jerome Powell, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Ảnh: AFP
Ông Jerome Powell, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Ảnh: AFP

Sẽ còn vài đợt tăng lãi suất nữa

Quyết định trên được Fed công bố sau cuộc họp chính sách diễn ra trong hai ngày, từ 31/1-1/2. 

Tại buổi họp báo sau đó, Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell, Chủ tịch Fed cho biết quá trình giảm lạm phát (disinflation) của nền kinh tế Mỹ đã bắt đầu. Tuy nhiên, để chắc chắn, ông Powell nói thêm rằng vẫn “còn quá sớm” để tuyên bố những người chiến thắng lạm phát.

“Bây giờ chúng tôi có thể lần đầu tiên nói rằng quá trình giảm lạm phát đã bắt đầu. Chúng ta có thể nhận ra điều đó và chúng ta cảm nhận được điều đó thực sự trong giá cả hàng hóa hiện nay”, ông Powell nhấn mạnh.

Người đứng đầu Fed đánh giá rằng lạm phát đã suy giảm ở một số lĩnh vực, nhưng vẫn còn quá sớm để khẳng định họ đã chiến thắng lạm phát.

“Sẽ là quá sớm để tuyên bố chiến thắng, hoặc nghĩ rằng chúng ta đã thực sự đạt được điều này”, Chủ tịch Fed lưu ý. Thực tế, quá trình giảm lạm phát đang bước vào giai đoạn đầu, nhưng “công việc vẫn chưa hoàn thành”. Bằng chứng là giá cả các dịch vụ cốt lõi không bao gồm lưu trú vẫn chưa sụt giảm.

Cho nên, Fed có thể tiến hành thêm một vài đợt tăng lãi suất nữa để đưa lạm phát về mục tiêu 2%.

“Chúng tôi đã tăng lãi suất 4,5 điểm phần trăm và chúng tôi đang xem xét một vài đợt tăng lãi suất nữa để đạt mức mà chúng tôi cho là hạn chế thích hợp”, ông Powell cho biết. “Tại sao chúng tôi nghĩ điều đó là cần thiết? Là bởi chúng tôi cho rằng lạm phát vẫn đang rất nóng”, Chủ tịch Fed nêu.

Cựu Giám đốc điều hành Goldman Sachs, ông Gary Cohn, cho hay, Chủ tịch Fed đã nhấn mạnh tại cuộc họp báo rằng dữ liệu mà Fed đang theo dõi chặt chẽ hơn bất kỳ thứ gì khác là dữ liệu việc làm.

Ông Cohn, cựu cố vấn kinh tế của chính quyền cựu Tổng thống Donald  Trump, cho biết: “Ông ấy (Chủ tịch Fed) đã nói nước đôi”. “Điều duy nhất mà ông ấy luôn quan tâm là thị trường lao động. Ở thời điểm này, có cảm giác như chúng ta chỉ phụ thuộc vào vấn đề lao động”.

Chủ tịch Fed cho biết ông không kỳ vọng việc cắt giảm lãi suất trong năm nay như dự đoán của một số chiến lược gia.

“Theo dự đoán của chúng tôi, tôi không thấy chúng tôi cần phải cắt giảm lãi suất trong năm nay, nếu dự đoán triển vọng của chúng tôi thành hiện thực”, ông Powell nói.

Chủ tịch Fed cũng cho biết ông “không lo ngại” việc thị trường trái phiếu đang trông đợi một đợt cắt giảm trước khi tạm dừng chiến dịch tăng lãi suất, vì nhiều nhà giao dịch đang hy vọng lạm phát sẽ suy giảm nhanh hơn dự đoán của Fed.

“Nếu chúng tôi thấy lạm phát giảm nhanh hơn nhiều, tất nhiên điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc thiết lập chính sách của chúng tôi”, ông Powell nói.

Theo đánh giá của các chiến lược gia đầu tư, cuộc họp chính sách của Fed trong hai ngày qua diễn ra “hơi ôn hòa”. Ông Charlie Ripley, chiến lược gia đầu tư cấp cao của Quỹ quản lý đầu tư Allianz Investment Management, nhận định Fed sắp kết thúc chiến dịch tăng lãi suất, nên tỏ ra “ôn hòa” hơn trong cuộc họp lần này.

Ông Ripley cho rằng sự thiếu rõ ràng về các động thái lãi suất trong tương lai báo hiệu Fed sắp kết thúc chu kỳ tăng lãi suất. Sau khi các đợt tăng lãi suất kết thúc, Fed có thể sẽ “thắt chặt chiến dịch khi dữ liệu kinh tế bắt kịp với chính sách”.

“Về cơ bản, Fed đang nói nước đôi vì họ vừa báo hiệu rằng việc tăng lãi suất thêm là phù hợp, nhưng cũng thừa nhận họ sẽ xem xét mức độ thắt chặt trong các quyết sách sắp tới”, ông Ripley nói.

Đại diện Allianz Investment Management Ripley cho rằng tốc độ chậm lại của các đợt tăng lãi suất gần đây (ở mức tăng 25 điểm cơ bản) là một “dấu hiệu rõ ràng” cho thấy Fed đã tự tin rằng chính sách kinh tế đang phát huy tác dụng mạnh mẽ như dự tính.

Kìm chân lãi suất dưới 5%

Chủ tịch Fed đang chuẩn bị cho kịch bản kinh tế Mỹ đạt tăng trưởng trong năm nay, kể cả “tăng trưởng nhẹ”. Xu hướng chính, theo ông Powell, là kinh tế Mỹ sẽ đạt tăng trưởng tích cực trong năm nay.

Trả lời câu hỏi của đài CNBC tại cuộc họp báo ngày 1/2, Chủ tịch Fed cho biết Fed “hoàn toàn có thể” níu lãi suất cơ bản dưới mức 5%. Sau đợt tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản lần này, lãi suất liên bang đã đạt ngưỡng 4,50 – 4,75%.

Người đứng đầu Fed vẫn tin rằng cơ quan này có thể kéo lạm phát xuống 2% – mục tiêu đề ra cho trung hạn – “mà không để xảy ra suy thoái lớn hay tỷ lệ thất nghiệp tăng cao”.

]]>
Chủ tịch Fed: Tăng lãi suất mạnh hơn nếu thị trường việc làm vẫn https://doanhnhandautu.com/chu-tich-fed-tang-lai-suat-manh-hon-neu-thi-truong-viec-lam-van/ Sat, 11 Feb 2023 10:21:54 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=6499 Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell, tái khẳng định lập trường rằng, lãi suất cần phải đẩy lên cao nữa để kiềm chế lạm phát.]]>
Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell, tái khẳng định lập trường rằng, lãi suất cần phải đẩy lên cao nữa để kiềm chế lạm phát.
Ông Jerome Powell, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Ảnh: Reuters
Ông Jerome Powell, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Ảnh: Reuters

Lập trường trên được Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), ông Jerome Powell tái khẳng định trong sự kiện ở Washington diễn ra ngày 7/2.

Chủ tịch Fed cho biết lãi suất cho vay có thể cán mốc cao hơn dự đoán của các nhà giao dịch và các nhà hoạch định chính sách.

Sự kiện “The Economic Club of Washington DC” hôm 7/2 là cuộc trao đổi đầu tiên của Chủ tịch Fed kể từ ngày 1/2 – thời điểm Fed công bố quyết định tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm.

“Chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi sẽ cần tăng lãi suất hơn nữa”, ông Powell nói tại phiên hỏi đáp của “The Economic Club of Washington DC”, đồng thời viện dẫn rằng: “Thị trường lao động đang phát triển mạnh mẽ”.

Nếu thị trường việc làm vẫn phát triển nóng, thì “có thể chúng tôi phải hành động nhiều hơn nữa”, Chủ tịch Fed nhấn mạnh.

Dữ liệu được chính phủ Mỹ cuối tuần trước cho thấy các nhà tuyển dụng đã bổ sung thêm 517.000 nhân công mới trong tháng 1, trong khi tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 3,4%, mức thấp nhất gần 55 năm qua qua, tính từ năm 1969.

Ông Powell cho rằng, thông tin về thị trường lao động “chỉ ra lý do tại sao chúng tôi nghĩ rằng, đây sẽ là một quá trình mất nhiều thời gian”.

Làn sóng bán tháo trái phiếu nhanh chóng xuất hiện sau đợt phục hồi vừa qua khi Chủ tịch Fed đánh tiếng tăng lãi suất cao hơn trong năm 2023 nếu thị trường việc làm không có dấu hiệu hạ nhiệt. Chứng khoán Mỹ ngày 7/2 cũng “quay xe” sau phát biểu của Chủ tịch Fed tại “The Economic Club of Washington DC”, nhưng vẫn kịp chốt phiên tăng điểm.

Theo ông Powell, mức lãi suất trung bình cao nhất được dự đoán là 5,1%. Đây được xem là một mức “trần mềm” và Chủ tịch Fed có vẻ sẵn sàng xem xét thêm dữ liệu và tăng lãi suất cao hơn nếu cần thiết.

Tuần trước, Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) – cơ quan hoạch định chính sách của Fed – đã tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25 điểm phần trăm, lên ngưỡng 4,5 – 4,75%. Tháng 12/2022, Fed cũng có động thái hãm đà tăng lãi suất tương tự với mức tăng 0,25 điểm phần trăm, sau 4 đợt tăng 0,75 điểm phần trăm trong năm.

]]>