# Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Dec 2024 22:38:24 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Đầu tư ra nước ngoài 534 triệu USD; tăng hơn 911 tỷ đồng kế hoạch đầu tư công trung hạn https://doanhnhandautu.com/dau-tu-ra-nuoc-ngoai-534-trieu-usd-tang-hon-911-ty-dong-ke-hoach-dau-tu-cong-trung-han/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:35 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2312 Đầu tư ra nước ngoài 534 triệu USD trong năm 2022; Điều chỉnh tăng hơn 911 tỷ đồng kế hoạch đầu tư công trung hạn… là hai trong số những thông tin đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.]]>
Đầu tư ra nước ngoài 534 triệu USD trong năm 2022; Điều chỉnh tăng hơn 911 tỷ đồng kế hoạch đầu tư công trung hạn… là hai trong số những thông tin đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.

Hà Nội: Đầu tư 12.350 tỷ đồng phát triển nhà ở xã hội giai đoạn 2021-2025 

 

UBND Thành phố Hà Nội vừa ban hành Quyết định 5063/QĐ-UBND phê duyệt Kế hoạch phát triển nhà ở xã hội Thành phố Hà Nội, giai đoạn 2021-2025.

Theo kế hoạch, Thành phố đánh giá tổng nhu cầu diện tích sàn nhà ở xã hội giai đoạn sau năm 2020 cần đầu tư xây dựng mới khoảng 6,8 triệu m2 sàn. Theo Chương trình phát triển nhà ở Thành phố giai đoạn 2021-2030 đã được phê duyệt, mục tiêu phát triển nhà ở xã hội đến năm 2025 khoảng 1,25 triệu m2 sàn.

Về khả năng đáp ứng, từ đầu năm 2021 đến nay, trên địa bàn Thành phố đã có 4 Dự ánhoàn thành với khoảng 0,33 triệu m2 sàn nhà ở xã hội. Ngoài ra, hiện có 46 dự án đang triển khai với khoảng 2,9 triệu m2 sàn và 5 dự án khu nhà ở xã hội tập trung đang được nghiên cứu triển khai.

Giai đoạn 2021-2025, Thành phố xác định nhiệm vụ phát triển nhà ở xã hội trọng tâm gồm: Tập trung đẩy nhanh tiến độ triển khai và hoàn thành 22 dự án hiện đã có quyết định/chấp thuận chủ trương đầu tư, cơ bản xong giải phóng mặt bằng, đang chuẩn bị đầu tư hoặc đang thi công xây dựng với khoảng 1,215 triệu m2 sàn dự kiến hoàn thành giai đoạn 2021-2025 (trong đó, đã có 4 dự án hoàn thành trong năm 2022). 

Ngoài ra, tiếp tục triển khai 28 dự án còn lại (khoảng hơn 2,015 triệu m2 sàn) dự kiến hoàn thành giai đoạn sau năm 2025 để bù đắp phần diện tích nhà ở còn thiếu so với mục tiêu kế hoạch. Đây là các dự án chưa có quyết định/chấp thuận chủ trương đầu tư, đang hoặc chưa thực hiện giải phóng mặt bằng, phải rà soát do điều chỉnh quy hoạch chi tiết hoặc vì chậm tiến độ, chưa hoàn thành thủ tục đầu tư. 

Đồng thời, chuẩn bị đầu tư 5 dự án khu nhà ở xã hội tập trung và triển khai các dự án xây mới có tiến độ hoàn thành trong giai đoạn sau năm 2025.

Về kế hoạch cụ thể theo từng năm giai đoạn 2021-2025, Hà Nội xác định: Năm 2021, đạt 88.200m2 sàn nhà ở. Năm 2022 dự kiến đạt 257.000m2 sàn nhà ở. Năm 2023 dự kiến đạt 32.900m2 sàn nhà ở. Năm 2024 dự kiến đạt 361.700m2 sàn nhà ở. Năm 2025 dự kiến đạt 475.200m2 sàn nhà ở.

Thành phố Hà Nội dự kiến vốn để hoàn thành phát triển nhà ở xã hội trong giai đoạn 2021-2025 là khoảng 12.350 tỷ đồng. Trong đó, dự kiến nguồn vốn ngân sách khoảng 283 tỷ đồng, ngoài ra là vốn huy động xã hội hóa từ các doanh nghiệp, nguồn vốn cho vay ưu đãi của Thành phố từ quỹ đầu tư phát triển, ngân hàng chính sách xã hội, các tổ chức tín dụng khác.

Đầu tư ra nước ngoài 534 triệu USD trong năm 2022 

Số liệu vừa được Cục Đầu tư nước ngoài công bố, trong năm 2022, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và điều chỉnh đạt gần 534 triệu USD.

Trong đó, có 109 Dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đăng ký đạt gần 426,6 triệu USD, tăng 78,7% số dự án và tăng 4,3% số vốn so với cùng kỳ; có 26 lượt dự án điều chỉnh vốn (tăng 18,2%) với tổng vốn đầu tư tăng thêm Có một điểm đặc biệt, đó là vốn đầu tư ra nước ngoài năm nay không quá lớn, nhưng so với năm ngoái, lại tăng khá mạnh. Lý do là vì, năm 2021, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã giảm gần 1,2 tỷ USD vốn đầu tư của Dự án Thăm dò phát triển và khai thác dầu khí tại Nga.

https://media.Baodautu.vn/Images/thanhha/2022/12/27/Unitel1.jpg
https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2023/01/unitel1.jpg

Bởi thế, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài cấp mới và điều chỉnh năm 2021 sau khi trừ khoản 1,2 tỷ USD kia thì còn âm tới 367 triệu USD.

Thông tin từ Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết, năm 2022, các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 14 ngành.

Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu, với 15 dự án đầu tư mới và 4 lượt điều chỉnh vốn, tổng vốn đăng ký gần 251,9 triệu USD, chiếm 47,2% tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai, với 2 dự án mới và 3 lượt điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư hơn 76,8 triệu USD, chiếm 14,4%; tiếp theo là các ngành bán buôn, bán lẻ; khai khoáng…

Năm 2022, theo Cục Đầu tư nước ngoài, có 29 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam.

Dẫn đầu là Singapore, với 21 dự án đầu tư mới và 3 dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 79,5 triệu USD, chiếm 14,9% tổng vốn đầu tư.

Đứng thứ hai là Lào với tổng vốn đầu tư hơn 70,5 triệu USD, chiếm 13,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Úc, Hoa Kỳ, Đức…

Như vậy, lũy kế đến ngày 20/12/2022, Việt Nam đã có 1.611 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư Việt Nam trên 21,75 tỷ USD. Trong đó, có 139 dự án của các doanh nghiệp có vốn nhà nước, với tổng vốn đầu tư ra nước ngoài gần 11,6 tỷ USD, chiếm 53,3% tổng vốn đầu tư cả nước.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các ngành khai khoáng (32%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,8%). Các địa bàn nhận đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (24,6%); Campuchia (13,5%); Venezuela (8,4%)…

Điều chỉnh tăng hơn 911 tỷ đồng kế hoạch đầu tư công trung hạn 

Phó thủ tướng Lê Minh Khái ký Quyết định số 1608/QĐ-TTg điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 – 2025 cho Bộ Giao thông – Vận tải.

 

Theo Quyết định số 1608/QĐ-TTg, Chính phủ điều chỉnh tăng 911,046 tỷ đồng kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 – 2025 (bao gồm 223,144 tỷ đồng vốn trong nước và 687,902 tỷ đồng vốn nước ngoài) cho Dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông (phần thực hiện dự án) của Bộ Giao thông – Vận tải.

Về triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 – 2025, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông – Vận tải căn cứ kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương, danh mục và mức vốn ngân sách trung ương được điều chỉnh ở trên thông báo hoặc quyết định giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 – 2025 cho các cơ quan, đơn vị sử dụng vốn đầu tư công, chi tiết danh mục dự án và mức vốn ngân sách trung ương bố trí cho dự án theo quy định; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và cơ quan liên quan về tính chính xác của các nội dung, số liệu báo cáo, danh mục dự án và mức vốn bố trí cho từng dự án bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

Các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, tài chính căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao về quản lý nhà nước đối với đầu tư công chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và cơ quan liên quan tính chính xác của các nội dung, số liệu báo cáo, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

Phó Thủ tướng yêu cầu báo cáo việc thông báo hoặc quyết định giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 – 2025 cho các cơ quan, đơn vị sử dụng vốn đầu tư công về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trước ngày 15/1/2023.

Thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công, Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 06/4/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ có liên quan.

Quảng Ngãi đề xuất 600 tỷ đồng tiếp tục đầu tư nâng cấp Quốc lộ 24B 

Theo UBND tỉnh Quảng Ngãi, Dự án Đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi hoàn thành đưa vào khai thác đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và khu vực duyên hải miền Trung nói chung, tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại của nhân dân trong khu vực.

Tuy nhiên, để đảm bảo khai thác an toàn, hiệu quả, cần thiết phải xây dựng các công trình kết nối nhằm phát huy hiệu quả của toàn bộ tuyến đường, phục vụ kinh tế, đời sống nhân dân.

Các tuyến đường kết nối sau khi đầu tư xây dựng hoàn thành đưa vào khai thác sẽ góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông, đảm bảo giao thông thuận lợi, ổn định, bền vững trong mọi tình huống, đặc biệt là trong mùa mưa bão sẽ cùng với tuyến đường Quốc lộ 1A đảm nhiệm trong việc vận hải hàng hóa và hành khách cho khu vực và cả nước.

Tuyến cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi kết nối với thành phố Quảng Ngãi thông qua nút giao Bắc Quảng Ngãi (Km123 + 700) và Quốc lộ 24B (Km25 + 825).

Trong khi đó, tuyến Quốc lộ 24B dài 108 km là tuyến giao thông huyết mạch nối các huyện đồng bằng, thành phố Quảng Ngãi, các huyện Sơn Hà, Sơn Tây, Trà Bồng nên lưu lượng phương tiện tham gia giao thông rất lớn.

Riêng đoạn tuyến Quốc lộ 24B từ nút giao với Đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đến Quốc lộ 1A (từ Km20 + 710 – Km29 + 200, dài 8,49 km) mới được đầu tư đoạn từ Km20 + 710 – Km23 + 300 dài 2,59 km, còn lại 5,9km (Km23 + 300 – Km29 + 200) chưa được đầu tư nâng cấp, mở rộng.

UBND tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, hiện trạng đoạn tuyến này có quy mô là đường cấp V đồng bằng (nền đường rộng 7,5m, mặt đường rộng 5,5m, một số đoạn nền đường chỉ rộng 6,5m) nên sau khi Đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đưa vào hoạt động, lưu lượng xe đi trên đoạn tuyến khá lớn, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông và tắc nghẽn giao thông, rất nhiều lần người dân và cử tri phản ánh.

Gần đây nhất, ngày 14/11/2022, tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Huyện ủy Sơn Tịnh về triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và phát triển đô thị huyện Sơn Tịnh, Ban Thường vụ Huyện ủy Sơn Tịnh tiếp tục kiến nghị đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 24B, đoạn Km23 + 300 – Km29 + 200.

Vì vậy, việc đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 24B, đoạn Km23 + 300 – Km29 + 200, tỉnh Quảng Ngãi, với quy mô 4 làn xe theo Quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 1/9/2021 để đáp ứng nhu cầu giao thông trong thời gian đến là hết sức cần thiết và cấp bách.

Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng tăng cao, giảm ách tắc, hạn chế tai nạn giao thông trên tuyến Quốc lộ 24B; tăng tính kết nối và phát huy hiệu quả đầu tư của Dự án Đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi; đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh, UBND tỉnh Quảng Ngãi đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 24B, đoạn Km23+300 – Km29+200, quy mô 4 làn xe, với kinh phí thực hiện khoảng 600 tỷ đồng trong giai đoạn 2023 – 2025.

Doanh nghiệp Ấn Độ “đổ bộ” tìm cơ hội đầu tư tại Đông Nam bộ

Trung tuần tháng 12/2022, liên tiếp các hội nghị giao thương, xúc tiến thương mại, đầu tưcủa doanh nghiệp Ấn Độ được tổ chức tại các tỉnh/thành phố Đông Nam bộ, như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương.

Trong những năm gần đây, Ấn Độ là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Số liệu từ Bộ Công thương cho thấy, năm 2021, thương mại song phương Việt Nam – Ấn Độ đạt 13,2 tỷ USD, tăng 36,5% so với năm 2020. Hai nước đang hướng tới mục tiêu đạt 15 tỷ USD thương mại song phương trong thời gian tới.

Tuy nhiên, tại khu vực Đông Nam bộ, đầu tư của Ấn Độ vẫn ở mức khá thấp, thậm chí có tỉnh không có Dự án nào của nhà đầu tư Ấn Độ.

Tại Đông Nam bộ, Bình Dương là địa phương thu hút được nhiều nhà đầu tư Ấn Độ nhất, với 10 dự án, tổng vốn đầu tư hơn 116 triệu USD. Bình Dương là tỉnh đứng thứ 3 cả nước về thu hút đầu tư của Ấn Độ, sau Ninh Thuận và Phú Yên.

Mặc dù là đầu tàu kinh tế của cả nước, nhưng TP.HCM chỉ thu hút được tổng cộng 82 triệu USD từ nhà đầu tư Ấn Độ (tính đến tháng 3/2022). Tại TP.HCM, Ấn Độ đứng thứ 25/116 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư tại Thành phố.

Trong khi đó, Đồng Nai chưa có dự án nào của doanh nghiệp Ấn Độ.

Với nhiều lợi thế hiện có, không khó để nhận ra việc các nhà đầu tư Ấn Độ đang để mắt tới Bình Dương như một điểm đến đầu tư tiềm năng trong thời gian tới. Nắm bắt cơ hội này, tháng 9/2022, Bình Dương đã đăng cai tổ chức Diễn đàn Hợp tác kinh tế Ấn Độ Horasis 2022. Tham gia diễn đàn này, các doanh nghiệp Ấn Độ đã có cơ hội tìm hiểu và đi khảo sát thực tế tại Bình Dương.

Nói về các lĩnh vực mà doanh nghiệp Ấn Độ có thể đầu tư tại Bình Dương, ông Nguyễn Thanh Toàn, Giám đốc Sở Công thương Bình Dương cho biết, tỉnh đang thực hiện chuyển đổi số cho doanh nghiệp, nên vấn đề hợp tác trong lĩnh công nghệ thông tin là một nhu cầu rất lớn.

Cụ thể, với ngành dược, Việt Nam đang nhập khẩu dược phẩm từ Ấn Độ khá lớn. Tại Bình Dương hiện có khá nhiều doanh nghiệp sản xuất dược đang hoạt động. Do đó, Bình Dương rất mong muốn hợp tác cùng Ấn Độ trong lĩnh vực này để có thể sản xuất và cung cấp cho thị trường Việt Nam và cả Ấn Độ.

Bên cạnh đó, lĩnh vực chế biến gỗ là ngành phát triển khá tốt tại Bình Dương mà doanh nghiệp Ấn Độ có thể cùng nhau hợp tác.

Đối với lĩnh vực năng lượng, Bình Dương đang phát triển mạnh điện năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, kho pin dự trữ phục vụ năng lượng mặt trời đang thiếu. Do đó, đây sẽ là một thị trường rất tiềm năng và rộng lớn mà doanh nghiệp Ấn Độ có thể đầu tư tại Bình Dương.

Tại Đồng Nai, khi tổ chức Hội nghị Xúc tiến đầu tư Ấn Độ vào Đồng Nai, diễn ra vào trung tuần tháng 12/2022, lãnh đạo tỉnh này cũng mong muốn đón các nhà đầu tư Ấn Độ đến đầu tư.

Bà Nguyễn Thị Hoàng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai cho biết, doanh nghiệp Ấn Độ có thế mạnh trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, giáo dục, y tế và đây là những lĩnh vực mà Đồng Nai rất quan tâm và đang mời gọi đầu tư.

Vì vậy, tỉnh Đồng Nai kỳ vọng thời gian tới, Ấn Độ sẽ mở rộng đầu tư vào Đồng Nai trong các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, logistics… “Tỉnh Đồng Nai cam kết sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Ấn Độ đầu tư các dự án vào tỉnh. Trong đó có hỗ trợ giải quyết nhanh các thủ tục hồ sơ để việc đầu tư diễn ra thuận lợi nhất”, bà Nguyễn Thị Hoàng nhấn mạnh.

Thông tin từ Tổng lãnh sự Ấn Độ tại TP.HCM cho biết, các doanh nghiệp Ấn Độ mong muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư ở lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dược phẩm… tại thị trường TP.HCM và các tỉnh vùng Đông Nam bộ. Một số tập đoàn của Ấn Độ như Ramky đã tìm hiểu cơ hội đầu tư phát triển bất động sản công nghiệp, đô thị tại vùng Đông Nam bộ.

Theo đánh giá của doanh nghiệp, Việt Nam và Ấn Độ đã có các đường bay thẳng từ Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Phú Quốc đến Delhi, Kolkata, Mumbai. Đây là điểm thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp hai nước hợp tác đầu tư.

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư FDI vào công nghệ chíp

Văn phòng Chính phủ vừa có công văn 8806/VPCP-QHQT ngày 28/12/2022 xử lý thông tin báo chí về giữ chân FDI công nghệ cao.

Cụ thể, Báo Tuổi trẻ (tuoitre.vn) ngày 22/12/2022 đăng bài “Giữ chân FDI công nghệ cao cách nào?” với nội dung: “Làn sóng dịch chuyển FDI toàn cầu đã có những doanh nghiệp FDI công nghệ hàng đầu thế giới tới Việt Nam trong 3 năm qua. Nhưng đây mới là thành công bước đầu trong thu hút FDI công nghệ cao. 

Có ý kiến cho rằng, từ phía Nhà nước, ngoài việc giữ ổn định nền tảng vĩ mô, cần xây dựng chính sách ưu đãi thuế, phí, đất đai phù hợp, đặc biệt là việc nhanh chóng xây dựng chính sách thu thuế tối thiểu toàn cầu, minh bạch môi trường đầu tư kinh doanh.

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư FDI vào công nghệ chíp

Bên cạnh đó cần chuẩn bị cả về hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, nhà xưởng, hệ thống logistics hiện đại, có năng lực vận chuyển và bốc dỡ hàng hóa, hạ tầng xã hội, tạo môi trường sống hấp dẫn, tạo thuận lợi về chỗ ở cho nhà đầu tư”.

Về thông tin trên, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư FDI vào công nghệ chíp, trình Chính phủ trong quý I năm 2023.

Báo cáo Thủ tướng về việc chọn thầu cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2

Ngày 30/12, Bộ GTVT đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc lựa chọn nhà thầu xây lắp, tư vấn giám sát và tổ chức khởi công xây dựng Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025.

Về việc phân chia gói thầu, Bộ GTVT khẳng định là đã bám sát tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ không chia nhỏ gói thầu và phải lựa chọn được nhà thầu xây lắp có năng lực, kinh nghiệm, uy tín; phải bảo đảm công khai, minh bạch, nghiêm túc, hiệu quả, tuân thủ quy định pháp luật; kiên quyết phòng, chống tiêu cực, lợi ích nhóm, tham nhũng.

Để triển khai nội dung trên, Bộ GTVT đã chỉ đạo các chủ đầu tư đưa ra một số nguyên tắc phân chia gói thầu làm cơ sở triển khai thực hiện. Trong đó, việc phân chia gói thầu phải tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu, pháp luật về xây dựng và yêu cầu kỹ thuật của Dự án. Theo đó, việc phân chia gói thầu xây lắp cần xem xét sự phù hợp  về phạm vi, quy mô, tính chất kỹ thuật của công trình; điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn; địa giới hành chính; tính liên tục của các công trình chính (đường, cầu, hầm); phương án điều phối vật liệu đào, đắp; phương án tổ chức thi công; vị trí, số lượng, trữ lượng các mỏ vật liệu xây dựng, bãi đổ thải; đường công vụ nội, ngoại tuyến… để phân chia gói thầu đảm bảo yếu tố kinh tế – kỹ thuật.

Bên cạnh đó, Bộ GTVT cũng căn cứ quy định về điều kiện năng lực của nhà thầu; kết quả khảo sát năng lực, kinh nghiệm nhà thầu của các chủ đầu tư để nghiên cứu xác định quy mô gói thầu hợp lý, đảm bảo lựa chọn được nhà thầu có đủ điều kiện năng lực, kinh nghiệm tham gia dự án, tuân thủ quy định của pháp luật.

Kết quả khảo sát cho thấy, trong 5 gần đây chỉ có 1 nhà thầu đã thực hiện hợp đồng có giá trị khoảng 3.600 tỷ đồng, trường hợp mở rộng 10 năm gần đây chỉ có thêm 1 nhà thầu đã thực hiện hợp đồng có giá trị khoảng 5.700 tỷ đồng; các nhà thầu khác đã thực hiện hợp đồng có giá trị nhỏ hơn (5 nhà thầu đã thực hiện hợp đồng có giá trị từ 1.600 – 2.300 tỷ đồng; 7 nhà thầu đã thực hiện hợp đồng có giá trị từ 1.000 – 1.500 tỷ đồng; các nhà thầu còn lại thực hiện hợp đồng có giá trị nhỏ hơn 1.000 tỷ đồng).

Theo nguyên tắc nêu trên, các chủ đầu tư đã trình Bộ GTVT kế hoạch lựa chọn nhà thầu, trong đó đề xuất phân chia 12 dự án thành phần thành 25 gói thầu xây lắp có giá trị từ 3.000 – 8.000 tỷ đồng.

Trong đó, 2 dự án thành phần (đoạn Bãi Vọt – Hàm Nghi, Cần Thơ – Hậu Giang) chia thành 1 gói thầu (không có cầu lớn, hầm, chiều dài dưới 40km); 7 dự án theo tính chất công trình cầu, hầm, chiều dài tuyến chia thành 2 gói thầu; riêng 3 dự án thành phần đoạn Quảng Ngãi – Hoài Nhơn, Quy Nhơn – Chí Thạnh và Hậu Giang – Cà Mau chia thành 3 gói thầu do đây là các dự án có chiều dài tuyến (60 – 90km), chi phí xây dựng từ 13.000 – 15.000 tỷ đồng, có tính chất kỹ thuật phức tạp (gồm 4 công trình hầm, 2 công trình cầu lớn, phạm vi xử lý nền đất yếu lớn).

Công tác tư vấn giám sát được chia thành 25 gói thầu tương ứng với các gói thầu xây lắp để thuận lợi trong việc giám sát thi công xây dựng và phù hợp năng lực của các tổ chức tư vấn giám sát trong nước.

Căn cứ Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội, Điều 73 Luật Đấu thầu, Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 11/02/2022 và Nghị quyết số 119/NQ-CP ngày 8/9/2022 của Chính phủ, Bộ GTVT đã phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu 12 dự án thành phần (25 gói thầu xây lắp và 25 gói thầu tư vấn giám sát) để các chủ đầu tư thực hiện chỉ định thầu theo thẩm quyền.

Ngoài ra, để nâng cao tính đồng bộ, tập trung một đầu mối nhằm quản lý chặt chẽ tiến độ, chất lượng thực hiện gói thầu, trong hồ sơ yêu cầu và hợp đồng gói thầu xây lắp đã quy định thành viên đứng đầu liên danh chịu trách nhiệm tổ chức quản lý, điều hành chung, trực tiếp giao dịch, làm việc với chủ đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng, sẵn sàng thay thế các nhà thầu yếu kém trong liên danh khi chất lượng, tiến độ thi công không đảm bảo yêu cầu.

Để đảm bảo lựa chọn được nhà thầu đáp ứng yêu cầu năng lực, kinh nghiệm, Bộ GTVT đã chỉ đạo các chủ đầu tư căn cứ quy định pháp luật về đấu thầu và xây dựng; trên cơ sở quy mô, tính chất kỹ thuật của gói thầu, xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu để thực hiện chỉ định thầu đảm bảo  đồng bộ, thống nhất, đúng quy định của pháp luật.

Các tiêu chí chính để đánh giá năng lực, kinh nghiệm nhà thầu đã được các chủ đầu tư phê duyệt bám sát quy định  Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT ngày 31/5/2022 của Bộ KH&ĐT, Nghị định 15/2021/NĐ-CP; trong đó bao gồm: yêu cầu về năng lực hành nghề thi công xây dựng theo quy định pháp luật về xây dựng; yêu cầu về năng lực tài chính (doanh thu, nguồn lực tài chính); yêu cầu về kinh nghiệm thực hiện hợp đồng xây lắp tương tự…

Đến nay, các chủ đầu tư đã hoàn thành công tác chỉ định thầu 14/25 gói thầu xây lắp, 14/25 gói thầu tư vấn giám sát theo đúng trình tự, thủ tục nêu trên đảm bảo chặt chẽ, công khai, minh bạch; các nhà thầu được lựa chọn, được chủ đầu tư đánh giá đều là các doanh nghiệp có tiềm lực, có uy tín và đáp ứng các yêu cầu năng lực, kinh nghiệm của hồ sơ yêu cầu.

“Đối với 11/25 gói thầu xây lắp và tư vấn giám sát còn lại, các chủ đầu tư đang hoàn thiện các thủ tục để chỉ định thầu, đáp ứng tiến độ triển khai đồng loạt trước Tết nguyên đán Quỹ Mão”, ông Lê Đình Thọ, Thứ trưởng Bộ GTVT thông tin.

Quảng Ninh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 đạt 120% kế hoạch Thủ tướng giao

Đó là kết quả được đưa ra tại cuộc họp tổng kết công tác giải ngân nguồn vốn đầu tư công năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023 của tỉnh Quảng Ninh mới đây.

Theo báo cáo tại cuộc họp, đến hết ngày 31/12, giải ngân nguồn vốn đầu tư công của Quảng Ninh năm 2022 đạt gần 14.987 tỷ đồng, bằng 95% tổng kế hoạch vốn điều hành của tỉnh và đạt trên 120% kế hoạch pháp lệnh về giải ngân đầu tư công của Thủ tướng Chính phủ giao từ đầu năm.

Năm 2023, nguồn vốn đầu tư công kế hoạch của tỉnh là 13.200 tỷ đồng, trong đó nguồn ngân sách cấp tỉnh là hơn 8.600 tỷ đồng, còn lại là nguồn ngân sách cấp huyện và xã. UBND tỉnh đã hoàn thành việc phân khai nguồn vốn đối với các địa phương, đơn vị, đồng thời xây dựng kế hoạch và lộ trình thực hiện thu tiền sử dụng đất đối với từng Dự án và mốc thời gian hoàn thành đảm bảo nguồn vốn phục vụ chi đầu tư công. Với mục tiêu đầu tư sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước, không đầu tư dàn trải, tỉnh xác định chỉ thực hiện khởi công mới dưới 10 công trình từ nguồn vốn ngân sách tỉnh trong năm 2023.

Tại cuộc họp, lãnh đạo các sở, ngành, địa phương trong tỉnh đã tập trung đánh giá, phân tích về công tác giải ngân nguồn vốn đầu tư công, nhất là các nội dung, giải pháp cần thực hiện trong năm 2023; phương án tháo gỡ các khó khăn liên quan đến hồ sơ, thủ tục về lĩnh vực tài nguyên, nguồn vật liệu san lấp, công tác quy hoạch xây dựng … 

Đối với kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công năm 2023, Quảng Ninh đặt mục tiêu hoàn thành 80% vào tháng 9 và 100% vào ngày 31/12/2023. Để hoàn thành mục tiêu này, các địa phương, đơn vị được giao làm chủ đầu tư hoàn thành phân khai kế hoạch vốn các dự án có mục tiêu trước ngày 31/12/2022 theo đúng tinh thần Nghị quyết 136/NQ-HĐND ngày 9/12/2022 của HĐND tỉnh.

Đối với các dự án khởi công mới năm 2023 từ nguồn vốn ngân sách cấp tỉnh, cũng như nguồn vốn ngân sách cấp huyện phải hoàn thiện phê duyệt đấu thầu trong quý I/2023 và lựa chọn được đơn vị thi công trong quý II. Riêng các dự án từ nguồn ngân sách tỉnh liên quan đến trụ sở công an cấp xã, trường học, phải phê duyệt dự án trong tháng 2/2023 để phê duyệt nguồn vốn vào tháng 3.

Đối với các dự án chuyển tiếp, các huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị được giao làm chủ đầu tư đôn đốc nhà thầu tập trung triển khai thi công ngay từ ngày đầu, tháng đầu của năm mới đảm bảo khối lượng giải ngân theo đúng tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy.

Dự án thứ hai của Hàn Quốc tại Quảng Trị sắp về đích 

Ngày 30/12, ông Jino Lee – Giám đốc Dự án Nhà máy lắp ráp điện tử Sangshin Electronics của Công ty Sangshin Electronics Co.Ltd (100% vốn đầu tư Hàn Quốc), cho biết dự án đầu tư vào Quảng Trị hiện tại đã hoàn thiện gần 90% về phần xây dựng và đang trong quá trình chuẩn bị cho các công tác nghiệm thu, hoàn công.

tăng vốn dự án thành 4 triệu USD (trong đó vốn góp là 2 triệu USD và vốn vay là 2 triệu USD), dự kiến ngày 16/01/2023 tới sẽ hoàn thành thủ tục cho phần vốn tăng thêm 500.000 USD.

Dự án Nhà máy lắp ráp điện tử Sangshin Electronics của Công ty Sangshin Electronics Co.Ltd do Công ty Sangshin Electronics Co.Ltd được UBND tỉnh Quảng Trị chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư vào ngày 04/11/2021.

Dự án được đầu tư trên diện tích đất sử dụng là 19.721 m2, tại Lô CN3, Cụm công nghiệp Đông Ái Tử, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Với thời hạn hoạt động 50 năm kể từ ngày cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư này có hiệu lực.

Dự án có công suất thiết kế 4,8 triệu bộ lọc tiếng ồn/năm, 27 triệu cuộn cảm/năm và 82 triệu linh kiện bằng nhựa đúc/năm cho cả 2 giai đoạn.

Trong giai đoạn 1, dự án được xây dựng và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 5/2023, sau thời gian 3 tháng chạy thử nghiệm theo quy định. Trong giai đoạn 2, dự án sẽ tiến hành xây dựng từ tháng 4/2024 và chính thức đi vào vận hành từ tháng 1/2025.

Đây là dự án thứ hai của nhà đầu tư Hàn Quốc, sau Công ty TNHH Poong In Vina đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Trị nhưng là dự án đầu tiên được triển khai xây dựng, sớm đi vào hoạt động, mang lại cơ hội công ăn việc làm cho dự kiến trên 500 lao động địa phương trong thời gian tới.

Quảng Ngãi đầu tư 250 tỷ đồng để xây đê chắn sóng Cảng Bến Đình

Ngày 30/12, Văn phòng UBND tỉnh Quảng Ngãi, cho biết Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Đặng Văn Minh đã ký quyết định về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình Đê chắn sóng bến Cảng Bến Đình (Lý Sơn, Quảng Ngãi).

Theo đó, dự án có các hạng mục gồm thân đê với tổng chiều dài 450 m, bề rộng mặt đê nơi lớn nhất là 16,4m và hẹp nhất là 6m, toàn bộ phần mặt đê được phủ bởi các khối phủ Accropode; cao trình đỉnh đê nơi cao nhất 6,6m và thấp nhất 4m. Hệ thống quan trắc sóng biển tại khu vực cảng Bến Đình.

Theo UBND tỉnh Quảng Ngãi, mục tiêu đầu tư bảo vệ ổn định khu vực cảng Bến Đình, góp phần che chắn làm giảm sóng, hạn chế bồi lấp, giảm thiểu rủi ro thiên tai khu vực cảng, đảm bảo việc khai thác hiệu quả cảng Bến Đình.

Đây là công trình giao thông cấp đặc biệt, thời hạn sử dụng công trình 50 năm. Tổng mức đầu tư 250 tỷ đồng, trong đó, ngân sách Trung ương 175 tỷ đồng, phần còn lại ngân sách cân đối địa phương. Thời gian thực hiện công trình giai đoạn 2022-2025.

Chủ đầu tư là Ban Quản lý dự án Đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh Quảng Ngãi.

Được biết, Cảng Bến Đình (huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi) là được đầu tư khoảng 256 tỷ đồng và khởi công tháng 11/2016. Đây là công trình cảng biển cấp 4, với 1 bến cầu tàu dài 240 m, bao gồm các hạng mục chính: Bến cập tàu dài 87 m, cầu dẫn dài hơn 150 m, diện tích khu lấn biển gần 5 ha, khu vực cảng hơn 3 ha, nhà ga rộng 1.000 m2, nhà làm việc 250 m2. 

Rộng cửa phương án chọn thầu dự án “siêu” cầu Đại Ngãi

“Chúng tôi đã nhận được hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư liên quan đến cơ chế chỉ định thầu theo cơ chế đặc thù cho công trình và đang tổng hợp, báo cáo Bộ GTVT để sớm có quyết định cuối cùng”, ông Nguyễn Thanh Vân, Giám đốc Ban Quản lý Dự án 85 (PMU85), đơn vị được Bộ GTVT giao nhiệm vụ chủ đầu tư Dự án Đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi trên Quốc lộ 60 cho biết.

Vào cuối tuần trước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Công văn số 9185/BKHĐT-QLĐT phúc đáp PMU85 về việc xin hướng dẫn thực hiện cơ chế đặc thù để triển khai dự án trên.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tại Quyết định số 878/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 về việc phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép công trình được sử dụng một phần vốn thuộc Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội.

Tại Điều 5, Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội có quy định Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc chỉ định thầu trong 2 năm 2022 – 2023 đối với các gói thầu tư vấn; gói thầu phục vụ di dời hạ tầng kỹ thuật; gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư; gói thầu xây lắp của các dự án quan trọng quốc gia, các dự án hạ tầng quan trọng có quy mô lớn, cấp bách về hạ tầng giao thông và y tế thuộc Chương trình.

“Do vậy, Bộ trưởng Bộ GTVT, người có thẩm quyền tổ chức thu hồi đất, hỗ trợ tái định cư của Dự án có trách nhiệm xác định gói thầu áp dụng cơ chế đặc thù về chỉ định thầu theo quy định tại Điều 5, Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ: về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình”, công văn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu rõ.

Liên quan việc tiết kiệm 5% giá dự toán gói thầu (không bao gồm chi phí dự phòng), Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Chính phủ được áp dụng yêu cầu này đối với các gói thầu xây lắp thuộc dự án thành phần áp dụng chỉ định thầu.

Trường hợp người có thẩm quyền quyết định tổ chức đấu thầu rộng rãi, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, việc lựa chọn nhà thầu phải thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu và các văn bản hướng dẫn liên quan. Trong đó, nội dung hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu.

Được biết, tại Quyết định số 878/QĐ-TTg, Thủ tướng cho phép Bộ GTVT sử dụng 4.130 tỷ đồng vốn từ Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội để đầu tư Dự án Đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi trên Quốc lộ 60. Phần vốn còn lại cho Dự án sẽ được phân bổ từ nguồn vốn đầu tư công trung hạn 2021 – 2025 và 2026 – 2030 của Bộ GTVT.

Theo PMU85, Dự án Đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi trên Quốc lộ 60 – công trình cầu lớn vượt sông Tiền kết nối 2 tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng – từng được đề xuất đầu tư bằng nguồn vốn ODA Nhật Bản. Tuy nhiên, để đảm bảo công trình có thể hoàn thành vào năm 2027, Chính phủ đã quyết định sử dụng nguồn vốn từ Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội để rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư.

Đây là dự án rất quan trọng đối với hạ tầng giao thông khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, giúp rút ngắn thời gian đi lại, giảm chi phí vận tải, lưu thông hàng hóa, mở rộng giao thương và phân luồng, giảm tải cho Quốc lộ 1, rút ngắn khoảng cách 80 km so với sử dụng tuyến Quốc lộ 1 khi di chuyển từ Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu về TP.HCM, giảm thời gian di chuyển qua 2 phà vượt sông Hậu.

“Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, việc chuyển sang sử dụng nguồn vốn trong nước và áp dụng cơ chế đặc thù có thể đẩy nhanh tiến độ Dự án khoảng 11,5 tháng”, Giám đốc PMU85 ước tính.

Hiện chưa rõ Bộ GTVT sẽ chọn áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu nào cho các gói thầu xây lắp, nhưng tại tờ trình mới nhất đề nghị cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án Đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi trên Quốc lộ 60, PMU85 đã kiến nghị áp dụng phương án đấu thầu để lựa chọn tư vấn trong nước kết hợp sử dụng một số chuyên gia nước ngoài cho 2 gói thầu tư vấn thiết kế và tư vấn giám sát công trình.

“Cầu chính cầu Đại Ngãi là công trình cầu dây văng có khẩu độ lớn, kết cấu phức tạp. Các đơn vị tư vấn trong nước hiện nay cũng đã tiếp cận, có kinh nghiệm thiết kế/thẩm tra/giám sát một công trình cầu dây văng có khẩu độ nhịp khá lớn, nhưng để đảm bảo chất lượng công trình và kiểm soát tốt các rủi ro, vẫn cần có yếu tố tư vấn nước ngoài tham gia Dự án”, đại diện PMU85 thông tin. Dự án Đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi trên Quốc lộ 60 có điểm đầu giao với Quốc lộ 54, thuộc địa phận xã Hùng Hòa (huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh); điểm cuối giao với Quốc lộ Nam sông Hậu, thuộc địa phận xã Long Đức (huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng)

Dự án có chiều dài 15,14 km, trong đó có 2 cầu lớn là cầu Đại Ngãi 1 (dài 2.559 m) và cầu Đại Ngãi 2 (dài 862 m).

]]>
Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiến kế tạo bứt phá, tiên phong trong hành động https://doanhnhandautu.com/bo-ke-hoach-va-dau-tu-hien-ke-tao-but-pha-tien-phong-trong-hanh-dong/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:10 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2635 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động tham mưu, đề xuất các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công.]]>
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động tham mưu, đề xuất các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công.

Ngày 4/1, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023.

Luôn hướng tới mục tiêu tạo đột phá trong cải cách thể chế, tạo động lực phát triển

Trình bày báo cáo tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, với vai trò là cơ quan tham mưu, tổng hợp về kinh tế – xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động tham mưu, đề xuất các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng các kịch bản tăng trưởng, tranh thủ thời cơ phục hồi và tạo động lực mới cho phát triển kinh tế đất nước.

Bên cạnh đó, Bộ đã kịp thời nghiên cứu, theo dõi, đánh giá và dự báo sát tình hình để từ đó tích cực tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các kịch bản phát triển phù hợp cũng như những giải pháp ứng phó kịp thời, giảm thiểu các tác động tiêu cực và đạt được mục tiêu kép trong phát triển kinh tế, xã hội. Các giải pháp được Bộ đưa ra đều là các giải pháp mạnh, có trọng tâm, đủ độ sâu và linh hoạt, phù hợp với yêu cầu trong ngắn hạn và trung hạn nhằm thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, liên kết vùng, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, và phát triển doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo định hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững gắn với tiến trình phục hồi xanh toàn cầu.

Luôn hướng tới mục tiêu tạo đột phá trong cải cách thể chế, tạo động lực phát triển
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và chủ trì Hội nghị tổng kết công tác năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Trước tác động nghiêm trọng của 2 năm đại dịch Covid-19, năm 2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhanh chóng, chủ động, bám sát diễn biến tình hình, ngay từ đầu năm đã xây dựng các kịch bản điều hành nền kinh tế, kiến nghị các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và duy trì tăng trưởng, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo kịp thời, hiệu quả các quyết sách đó. 

Nhờ vậy, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao là một trong số ít các quốc gia đạt được kết quả tăng trưởng ấn tượng, thể hiện sự hồi phục mạnh mẽ sau đại dịch, tăng trưởng GDP năm 2022 đạt 8,02%, cao nhất trong 12 năm qua.

Đồng thời, Bộ đã làm tốt công tác tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, triển khai các biện pháp nhằm tiếp tục thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao; thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi, gia tăng niềm tin và khơi dậy tinh thần kinh doanh, tinh thần sáng tạo và bản lĩnh của doanh nghiệp; tiếp tục chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, cụ thể hóa các chính sách phát huy mô hình kinh tế mới (kinh tế ban đêm, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn…) và các yêu cầu phát triển bền vững hậu Covid-19; phát huy vai trò tích cực trong công tác truyền thông, giải trình về định hướng điều hành chính sách và kết quả kinh tế – xã hội, qua đó góp phần đáng kể tạo đồng thuận xã hội, ổn định tâm lý thị trường; kịp thời tham mưu các giải pháp, cơ chế, chính sách góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, tranh thủ tận dụng tối đa thời cơ để phục hồi và phát triển nền kinh tế. 

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề cao tinh thần chủ động nghiên cứu kết hợp với học hỏi kinh nghiệm trong nước, quốc tế để đổi mới cách nghĩ, cách làm khi tham mưu, luôn hướng tới mục tiêu tạo đột phá trong cải cách thể chế, tạo động lực phát triển, chuyển mạnh tư duy quản lý sang tập trung xây dựng định hướng phát triển quốc gia ở tầm vĩ mô; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tiếp tục đề xuất những điều chỉnh mang tính linh hoạt tạo đột phá trong các dự án Luật như Luật đấu thầu sửa đổi, Luật Hợp tác xã sửa đổi. 

Là cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng thực hiện có trách nhiệm và nghiêm túc đánh giá, xem xét tính khả thi của các chương trình, dự án trọng điểm, tạo cú hích về tăng trưởng nền kinh tế. Năm 2022 nổi bật với việc phê duyệt Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long, phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch 05 vùng; tổ chức hoàn thành thẩm định 21 quy hoạch tỉnh.

Là cơ quan được giao nhiều Đề án quan trọng mang tầm quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ động tìm kiếm, nghiên cứu các mô hình mới để tham mưu cho Đảng, Nhà nước những văn kiện quan trọng của đất nước, bảo đảm chất lượng, được đánh giá cao như Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; Đề án Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ giai đoạn 2021-2030 thực hiện đột phá chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước; Đề án Định hướng thu hút quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025; Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2050.

Nhờ đó, Việt Nam luôn là điểm sáng thu hút các dòng vốn quốc tế dựa trên triết lý của Thủ tướng Chính phủ “Lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định; Ngoại lực là quan trọng và đột phá”.

Các hiến kế đúng thời điểm tham mưu cho Chính phủ góp phần tăng hiệu quả của nền hành chính công vụ thông qua việc chủ trì và tham gia các Tổ công tác đặc biệt do Chính phủ thành lập về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy thực hiện dự án đầu tư tại các bộ, ngành và địa phương và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh hay các quyết sách để đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác thông qua  xây dựng Nghị quyết số 20 ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển đối với các địa phương Khánh Hòa, Cần Thơ, Buôn Ma Thuột được Quốc hội thông qua là những dấu ấn nổi bật trong nỗ lực tạo cực tăng trưởng quốc gia.

Tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành

Để phấn đấu phát huy tối đa các mặt tích cực, kết quả đạt được trong những năm qua và khẩn trương, kiên quyết, kiên trì khắc phục những mặt còn hạn chế, bất cập, quyết tâm nỗ lực hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2023 của ngành Kế hoạch và Đầu tư, tiếp tục khẳng định, nâng cao vị thế trong công tác tham mưu, tổng hợp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.

Thứ nhất, tiếp tục cụ thể hóa, triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng XIII và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài, và Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Tổ chức thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. 

Thứ hai, khẩn trương ban hành ngay chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2023 của Chính phủ, tiếp tục chỉ đạo sát sao, đôn đốc việc triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án, báo cáo theo Chương trình công tác đã đăng ký, phát huy và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan trong thực thi công vụ, bảo đảm hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành, bám sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước để kịp thời tham mưu giải pháp, chính sách phù hợp nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 đã đề ra.

Thứ tư, tiếp tục rà soát cơ chế chính sách để kịp thời tham mưu điều chỉnh, xử lý những vấn đề thực tiễn đặt ra trong quản lý đầu tư công, rà soát, sửa đổi theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phân công, phân nhiệm bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả. 

Thứ năm, tiếp tục chủ trì tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện các mục tiêu dài hạn về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

Thứ sáu, tiếp tục đặt trọng tâm vào tháo gỡ các rào cản để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và hỗ trợ cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Thúc đẩy các giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu giảm phát thải ròng về không vào năm 2050 theo cam kết của Việt Nam tại COP26, lồng ghép các mục tiêu về phát thải khí nhà kính vào các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội hằng năm.

Thứ bảy, tiếp tục nghiên cứu, cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp và nhà đầu tư dễ dàng gia nhập thị trường theo quy định của pháp luật. Phối hợp với địa phương về chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh; có các giải pháp tích cực khuyến khích, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ đăng ký kinh doanh qua mạng điện tử; tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về đăng ký doanh nghiệp.

Thứ tám, đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực do Bộ quản lý; thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, gắn liền với công tác đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động và luân chuyển cán bộ. 

Thứ chín, nghiên cứu, tham mưu các mô hình kinh tế mới và xây dựng các quy định về cơ chế thử nghiệm các mô hình kinh tế này trình cấp có thẩm quyền ban hành.

Thứ mười, tổ chức đánh giá giữa kỳ đối với các nội dung: (i) tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025; (ii) kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025; (iii) tình hình thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025; (iv) tình hình thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; (v) việc thực hiện Đề án “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025” tại Quyết định số 2109/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ.

Mười một, chủ động trong xây dựng nội dung và chủ trì tổ chức các cuộc họp Tổ điều phối kinh tế vĩ mô (Tổ 1317) nhằm kịp thời phân tích, đánh giá diễn biến tình hình kinh tế thế giới (tăng trưởng, tỷ giá, giá cả, lạm phát, sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn, các đối tác chủ yếu….) cũng như tình hình kinh tế vĩ mô trong nước; đánh giá các tác động cũng như triển vọng của nền kinh tế Việt Nam và đề xuất, kiến nghị các kịch bản ứng phó, các giải pháp kịp thời trong công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Mười hai, tiếp tục điều tra, tổng hợp và cung cấp thông tin thống kê phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Đảng, nhà nước và Chính phủ; phục vụ đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 5 năm 2021-2025. Triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ của Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Mười ba, tiếp tục phối hợp với bộ, ngành và địa phương triên khai Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và Chiến lược quốc về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2050.  

Mười bốn, triển khai thực hiện đúng tiến độ và bảo đảm chất lượng đối với các đề án, nhiệm vụ được giao, trong đó, tập trung vào một số đề án, nhiệm vụ trọng tâm như: (i) Tham mưu Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; (ii) Tham mưu Thủ tướng Chính phủ kiện toàn bộ máy, cơ cấu tổ chức của Hội đồng điều phối vùng Thủ đô và xây dựng kế hoạch hoạt động; (iii) Tham mưu xây dựng Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh; (iv) Nghiên cứu, xây dựng, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển các Vùng theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển Vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; (v) Dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn; (vi) Đề án tăng cường năng lực thống kê quốc gia; (vii) Xây dựng Quy hoạch 05 vùng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; (viii) Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật về hỗ trợ phát triển hộ kinh doanh; (ix) Báo cáo Sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; (x) Báo cáo tình hình 03 năm thực hiện Đề án phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam; (xi) Xây dựng Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, Nghị định về Hộ kinh doanh; (xii) Đề án xây dựng thể chế, cơ chế tổ chức điều phối, liên kết phát triển vùng, tiểu vùng (Vùng Đông Nam Bộ, Vùng Tây Nguyên, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung bộ)…

Mười lăm, tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nghiêm túc triển khai Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý đảng viên; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng cho bí thư chi bộ và cấp ủy viên. Tiếp tục phát huy hiệu quả công tác dân vận và lãnh đạo các tổ chức đoàn thể, quần chúng. Phối hợp với chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội vận động CBCCVCNLĐ phát huy truyền thống đoàn kết, ý thức trách nhiệm, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết Đại hội V Công đoàn Viên chức Việt Nam.

Mười sáu, tiếp tục chỉ đạo sát sao, đôn đốc việc triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án, báo cáo theo Chương trình công tác đã đăng ký, phát huy và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan trong thực thi công vụ, bảo đảm hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

]]>
Thủ tướng: Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải làm tốt hơn nữa công tác tham mưu chiến lược https://doanhnhandautu.com/thu-tuong-bo-ke-hoach-va-dau-tu-phai-lam-tot-hon-nua-cong-tac-tham-muu-chien-luoc/ Sat, 11 Feb 2023 10:32:01 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=2708 Giao nhiệm vụ năm 2023 cho ngành Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng yêu cầu công tác tham mưu chiến phải "đã nhanh phải nhanh hơn nữa, đã tốt phải tốt hơn nữa".]]>
Giao nhiệm vụ năm 2023 cho ngành Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng yêu cầu công tác tham mưu chiến phải “đã nhanh phải nhanh hơn nữa, đã tốt phải tốt hơn nữa”.

Tham mưu đúng và trúng, đóng góp tích cực vào cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị tổng kết công tác năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023 của ngành Kế hoạch và Đầu tư diễn ra sáng nay (ngày 4/1), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhắc lại nhận định của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tổng tham mưu có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng”.

Thủ tướng đánh giá cao, biểu dương sự nỗ lực của lãnh đạo, công chức, viên chức, người lao động ngành kế hoạch và đầu tư và thống kê, đạt được những kết quả rất tích cực, góp phần quan trọng vào thành tựu của đất nước trong năm 2022. 

Tham mưu đúng và trúng, đóng góp tích cực vào cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị. (Ảnh: Nhật Bắc)

Dành nhiều thời gian phân tích thêm một số thành tựu, kết quả nổi bật trong năm 2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng đánh giá, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thành rất nhiều việc mà trong báo cáo còn chưa nêu được hết.

Theo đó, Bộ bám sát, nắm chắc tình hình trong và ngoài nước để thực hiện vai trò của cơ quan tổng hợp tham mưu cấp chiến lược, cơ quan đầu mối, điều phối điều hành kinh tế vĩ mô, có sản phẩm cụ thể, hiệu quả lượng hóa được.

Trong đó, một dấu ấn là trình cấp có thẩm quyền ban hành Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội có quy mô 347.000 tỷ đồng, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, với 4 lĩnh vực trọng tâm mà thực tế khẳng định là đúng và trúng: An sinh xã hội, y tế, hạ tầng và hỗ trợ doanh nghiệp. 

Cùng với đó, đóng góp tích cực vào cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, kịp thời đối thoại, lắng nghe, đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp tối đa theo tinh thần “Chính phủ kiến tạo”, tạo môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng; cùng với giải ngân đầu tư công, giải ngân vốn FDI đạt khoảng 22 tỷ USD, năm 2022 là năm có số lượng đăng ký doanh nghiệp cao nhất từ trước đến nay. 

Bộ cũng làm tốt hơn công tác tham mưu, hoàn thiện thể chế liên kết vùng, phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Tổng kết, phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ ngành, báo cáo Bộ Chính trị, Chính phủ ban hành các Nghị quyết về phát triển vùng (Tây Nguyên và Đông Nam Bộ), Chương trình hành động của Chính phủ về định hướng, giải pháp phát triển 06 vùng kinh tế-xã hội; đồng thời tích cực xây dựng quy hoạch 6 vùng này. Trình Chính phủ báo cáo Quốc hội thông qua 03 Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển cho: Cần Thơ, Khánh Hòa, TP. Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk.  

Bộ đã tham mưu trình cấp có thẩm quyền cắt giảm gần 5.000 dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn; đồng thời định hướng đầu tư công có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, manh mún, kéo dài, kém hiệu quả; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác công-tư. 

Cùng với đó, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư tích cực, quan tâm, “ngày đêm sớm tối trăn trở” về đổi mới sáng tạo, kiến tạo phát triển, luôn ủng hộ sự đổi mới. Công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách tiếp tục được chú trọng, đẩy mạnh triển khai thực hiện với tinh thần một luật sửa nhiều luật. Bộ cũng làm tốt hơn công tác truyền thông; công tác thống kê ngày càng bài bản, chuyên nghiệp, khoa học, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo đảm thông tin thống kê, “là tai, là mắt của Đảng và Nhà nước”.

Bộ cũng phát huy hiệu quả hơn vai trò cơ quan đầu mối của Chính phủ trong phối hợp với phía Lào, nhất là trong triển khai các dự án hợp tác lớn. 

Thủ tướng nêu rõ, có được những kết quả này là nhờ Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để triển khai một cách tích cực, chủ động; giữ vững đoàn kết, thống nhất, nỗ lực, phấn đấu, tuân thủ nguyên tắc và nâng cao năng lực quản lý; sự phối hợp tương đối tốt với các bộ, ngành, địa phương.  

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng nêu rõ, công tác của ngành kế hoạch, đầu tư và thống kê vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Thủ tướng yêu cầu làm tốt hơn nữa công tác tham mưu chiến lược, phản ứng chính sách; sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển, xây dựng cơ chế, thể chế thúc đẩy hợp tác công-tư; công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế; công tác truyền thông chính sách; công tác triển khai các quy hoạch; công tác xây dựng, lập kế hoạch, giải ngân, triển khai thực hiện, kiểm tra, giám sát đầu tư công…

Huy động mọi nguồn lực cho phát triển, tập trung cho các dự án “ra tấm ra món”

Về các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp năm 2023, Thủ tướng cơ bản đồng tình với các nội dung trong Báo cáo của Bộ và phát biểu của các đại biểu, đồng thời lưu ý một số nội dung.

Trước hết, Thủ tướng yêu cầu Bộ tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong công tác tham mưu chiến lược, điều hành kế hoạch, điều phối kinh tế vĩ mô, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, đặc biệt là của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2021-2030, các kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025, Nghị quyết 01 của Chính phủ.

Theo dõi sát diễn biến tình hình khu vực và thế giới; nhận diện rõ thời cơ, thách thức; tăng cường công tác dự báo, cảnh báo, chủ động xây dựng kịch bản để kịp thời tham mưu với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp trong chỉ đạo, điều hành và triển khai các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, ứng phó kịp thời, hiệu quả với các biến động trong và ngoài nước; hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thủ tướng nhắc lại yêu cầu góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả. Đây cũng là nhiệm vụ được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương ngày 3/1. Thủ tướng phân tích, qua các cuộc khủng hoảng, các khó khăn, thách thức, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là hết sức quan trọng; có nền kinh tế độc lập, tự chủ thì mới có điều kiện để giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Mặt khác, Việt Nam đang chuyển trạng thái trong quan hệ hợp tác với các nước, các đối tác, từ giai đoạn các đối tác chủ yếu là hỗ trợ Việt Nam vượt qua khó khăn, xóa đói, giảm nghèo, sang giai đoạn hợp tác bình đẳng, hai bên cùng có lợi.

Nhiệm vụ lớn thứ ba được Thủ tướng lưu ý là tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, tham mưu thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát hiện, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tổ chức thực hiện hiệu quả. 

Thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, góp phần thực hiện được chỉ tiêu về tốc độ tăng năng suất lao động xã hội. Thủ tướng lưu ý nâng cao hơn nữa vai trò kiến tạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hoàn thành cơ sở vật chất cho trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia và tham khảo, học tập kinh nghiệm các nước về lĩnh vực này. 

Tiếp tục tham mưu xây dựng môi trường kinh doanh thông thoáng để huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; phân bổ và sử dụng nguồn lực nhà nước phù hợp, hiệu quả. Đẩy mạnh hơn nữa hợp tác công-tư, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, kích hoạt mọi nguồn lực xã hội. 

Thủ tướng lưu ý, với nguồn vượt thu năm 2022 là 392.000 tỷ đồng, cần ưu tiên xử lý các vấn đề cấp bách, đột xuất, bất ngờ và đầu tư hạ tầng giao thông chiến lược, dùng nguồn lực này để thực hiện bằng được mục tiêu của Đại hội XIII của Đảng là tới năm 2025, cả nước có 3.000 km cao tốc và tới năm 2030 có 5.000 km cao tốc để tạo không gian, động lực phát triển mới cho đất nước, làm “ra tấm ra món”, dứt khoát không dàn trải, manh mún, kéo dài.

Các hệ thống hạ tầng y tế, giáo dục, văn hóa được đầu tư, hoàn thiện thì doanh nghiệp tự mang tiền đến đầu tư. Phải rà soát, có tiêu chuẩn, tiêu chí, làm những dự án tiếp tục sinh ra tiền mới là đầu tư phát triển, chứ để kéo dài, đội vốn, thanh tra, kiểm tra xử lý thì đau lòng lắm”, Thủ tướng nói.

Về hợp tác công-tư, Thủ tướng cho rằng, dư địa thúc đẩy hợp tác công-tư còn rất lớn để huy động mọi nguồn lực cho phát triển, nhưng hiện nay, thể chế cho hợp tác công-tư còn hạn chế so với sự vận động, phát triển và đòi hỏi của thực tiễn.

Thủ tướng yêu cầu Bộ đẩy mạnh chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực đang quản lý; nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thống kê, với quan điểm chủ đạo là thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, kịp thời và minh bạch, số liệu “đúng, đủ, sạch, sống”; làm tốt hơn nữa công tác truyền thông chính sách, theo tinh thần “nói được làm được”, “đi vào lòng người” để tạo đồng thuận xã hội, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ truyền thông. 

Đồng thời, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đầu mối hợp tác liên Chính phủ giữa Việt Nam và Lào trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, “giúp bạn là giúp mình”. Phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả với các bộ, ngành, cơ quan, địa phương, nghiên cứu tìm được “đầu ra” cho các vấn đề khó khăn, vướng mắc đặt ra trong thực tiễn. 

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực cấp dưới và tăng cường kiểm tra, giám sát, phân bổ nguồn lực. Thủ tướng lấy ví dụ, trước đây đầu tư các tuyến cao tốc chỉ do Bộ Giao thông vận tải triển khai, nhưng trong nhiệm kỳ này, chúng ta đã bố trí được số vốn lên tới 470.000 tỷ đồng cho phát triển hạ tầng giao thông, cao gấp 3 lần so với nhiệm kỳ trước, nếu làm theo cách trước đây thì không thể thực hiện được. Trong khi đó, nếu được phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ thì các tỉnh, thành phố rất phấn khởi và có động lực để triển khai vì các dự án cao tốc gắn liền với sự phát triển của địa phương. Thực tiễn đã cho thấy cách làm mới là phù hợp, hiệu quả. 

Thủ tướng cũng lưu ý cần thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và đảng viên. Tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. 

Thực hiện nghiêm các Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI, XII, XIII), Kết luận số 21 của Bộ Chính trị về tăng cường xây dựng, chính đốn Đảng, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gắn với thực hiện Kết luận 01 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thực chất, hiệu quả; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và bảo vệ đội ngũ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; khen thưởng, kỷ luật kịp thời, nghiêm minh. 

Với bề dầy truyền thống vẻ vang 78 năm, Thủ tướng tin tưởng rằng tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành kế hoạch, đầu tư và thống kê tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được; nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức; phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, năm 2023 đạt kết quả cao hơn năm 2022 như chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

]]>
Việt Nam đang là điểm đến mới đầy hấp dẫn đối với nhà đầu tư Hồng Kông, Trung Quốc https://doanhnhandautu.com/viet-nam-dang-la-diem-den-moi-day-hap-dan-doi-voi-nha-dau-tu-hong-kong-trung-quoc/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:36 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3413 Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đô thị thông minh, dịch vụ logistic, tài chính xanh...]]>
Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đô thị thông minh, dịch vụ logistic, tài chính xanh…

Trưa ngày 10/1, Hội thảo kết nối hợp tác doanh nghiệp Việt Nam và Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao (Trung Quốc) đã diễn ra Hà Nội.

Hội thảo do Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (FIA) phối hợp cùng Phòng Thương mại Trung Quốc tại Hồng Kông (CGCC), Hiệp hội Doanh nhân Vùng Vịnh Quảng Đông – Hồng Kông – Ma Cao (GBA Union), Phòng Thương mại Hồng Kông – Việt Nam (HKVCC), Văn phòng kinh tế và Thương mại Hồng Kông tại Singapore (HKETO) đồng tổ chức, nhằm thúc đẩy kết nối hợp tác doanh nghiệp giữa Việt Nam và Hồng Kông, cũng như Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao trong bối cảnh Trung Quốc chính thức mở cửa sau đại dịch. Ngoài việc giới thiệu những phát triển gần đây của Hồng Kông, sự kiện còn tập trung xúc tiến các doanh nghiệp Hồng Kông đầu tư vào Việt Nam thông qua việc giới thiệu môi trường đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam trong thời gian gần đây, nhất là trong các lĩnh vực như gia công, chế tạo, bất động sản, thương mại, dịch vụ, phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế vùng…

Phát biểu tại sự kiện, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết, quan hệ hợp tác đầu tư – thương mại giữa Việt Nam và Hồng Kông đã đạt được những thành tự nhất định, góp phần rất lớn vào sự phát triển trong quan hệ kinh tế của hai bên.

Về thương mại, Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ tám của Hồng Kông. Năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên đạt 13,5 tỷ USD chủ yếu là các mặt hàng gồm máy tính, các sản phẩm và linh kiện điện tử. Tính đến tháng 11/2022, Việt Nam đã xuất khẩu sang Hồng Kông 10 tỷ USD, nhập khẩu từ Hồng Kông 1,78 tỷ USD, tăng 19,8%.

Về đầu tư, Hồng Kông hiện đứng thứ 5 về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với 2.164 dự án, tổng vốn đầu tư đạt gần 29,5 tỷ USD, tập trung vào các lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo, hoạt động kinh doanh bất động sản, sản xuất, phân phối điện, khí, nước… Trong đó có các dự án quy mô lớn, đóng góp quan trọng trong việc phát triển một số lĩnh vực kinh tế của Việt Nam thời gian qua. Hợp tác đầu tư giữa hai bên có sự gắn kết chặt chẽ, bổ trợ lẫn nhau để cùng phát triển.

Việt Nam đang là điểm đến mới đầy hấp dẫn đối với nhà đầu tư Hồng Kông, Trung Quốc
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phát biểu tại sự kiện.

Theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, dự báo kinh tế thế giới năm 2023 có nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhiều tổ chức quốc tế đều dự báo mức tăng GDP của Việt Nam khoảng 6,5%. Moody’s và S&P đều xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam ở mức “ổn định” và “tích cực”. Theo WIPO, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2022 của Việt Nam về thể chế, phát triển thị trường, sáng tạo tăng hơn 20 bậc, xếp vị trí 48/132 quốc gia.

“Với những tín hiệu tích cực và khả quan trong sự phục hồi của nền kinh tế, tận dụng những lợi thế sẵn có, cùng với những nỗ lực mạnh mẽ của Chính phủ trong việc không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, Việt Nam đang trở thành điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. Theo UNCTAD, Việt Nam là 1 trong 20 nước tiếp nhận nhiều nhất FDI trên thế giới”, Thứ trưởng Trần Duy Đông nhấn mạnh.

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Jonathan Choi, Chủ tịch CGCC, GBA Union, HKVCC và Chủ tịch Tập đoàn Sunwah đánh giá, với lợi thế là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất trong khu vực, đặc biệt là trong giai đoạn hậu đại dịch, Việt Nam đang là điểm đến mới đầy sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Trung Quốc, đặc biệt là Hồng Kông và Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao.

“Sự gần gũi về địa lý và văn hóa tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam, Hồng Kông và và Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thương mại, đầu tư và du lịch. Hoạt động thương mại của Việt Nam gắn kết chặt chẽ với Khu vực Quảng Đông – Hồng Kông – Ma Cao, một thị trường rộng lớn khoảng 86 triệu dân với những lợi thế riêng như tài nguyên phong phú, công nghiệp dịch vụ hiện đại, phát triển đồng bộ và toàn diện”, Tiến sĩ Jonathan Choi phân tích.

Việt Nam đang là điểm đến mới đầy hấp dẫn đối với nhà đầu tư Hồng Kông, Trung Quốc
Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp Hồng Kông và Việt Nam.

Thứ trưởng Trần Duy Đông khẳng định, trong thời gian tới, Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đô thị thông minh, dịch vụ logistics, thương mại và dịch vụ, tài chính xanh… Đây là những lĩnh vực mà doanh nghiệp Hông Kông có thế mạnh và cũng là những lĩnh vực mà Việt Nam khuyến khích thu hút đầu tư.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cam kết, cùng với nỗ lực chung của hai bên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục tham mưu những bước đột phá trong cải cách môi trường đầu tư kinh doanh, đổi mới phương thức hỗ trợ doanh nghiệp. Đồng thời, sẽ luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư kinh doanh có hiệu quả tại Việt Nam.

]]>
Việt Nam đang là điểm đến đầy hấp dẫn đối với nhà đầu tư Hồng Kông, Trung Quốc https://doanhnhandautu.com/viet-nam-dang-la-diem-den-day-hap-dan-doi-voi-nha-dau-tu-hong-kong-trung-quoc/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:34 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3425 Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đô thị thông minh, dịch vụ logistics, tài chính xanh...]]>
Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đô thị thông minh, dịch vụ logistics, tài chính xanh…

Trưa ngày 10/1, Hội thảo kết nối hợp tác doanh nghiệp Việt Nam và Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao (Trung Quốc) đã diễn ra Hà Nội.

Hội thảo do Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (FIA) phối hợp cùng Phòng Thương mại Trung Quốc tại Hồng Kông (CGCC), Hiệp hội Doanh nhân Vùng Vịnh Quảng Đông – Hồng Kông – Ma Cao (GBA Union), Phòng Thương mại Hồng Kông – Việt Nam (HKVCC), Văn phòng kinh tế và Thương mại Hồng Kông tại Singapore (HKETO) đồng tổ chức.

Mục tiêu là nhằm thúc đẩy kết nối hợp tác doanh nghiệp giữa Việt Nam và Hồng Kông, cũng như Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao trong bối cảnh Trung Quốc chính thức mở cửa sau đại dịch. Ngoài việc giới thiệu những phát triển gần đây của Hồng Kông, sự kiện còn tập trung xúc tiến các doanh nghiệp Hồng Kông đầu tư vào Việt Nam thông qua việc giới thiệu môi trường đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam trong thời gian gần đây, nhất là trong các lĩnh vực như gia công, chế tạo, bất động sản, thương mại, dịch vụ, phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế vùng…

Phát biểu tại sự kiện, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết, quan hệ hợp tác đầu tư – thương mại giữa Việt Nam và Hồng Kông đã đạt được những thành tự nhất định, góp phần rất lớn vào sự phát triển trong quan hệ kinh tế của hai bên.

Về thương mại, Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ tám của Hồng Kông. Năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên đạt 13,5 tỷ USD chủ yếu là các mặt hàng gồm máy tính, các sản phẩm và linh kiện điện tử. Tính đến tháng 11/2022, Việt Nam đã xuất khẩu sang Hồng Kông 10 tỷ USD, nhập khẩu từ Hồng Kông 1,78 tỷ USD, tăng 19,8%.

Về đầu tư, Hồng Kông hiện đứng thứ 5 về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với 2.164 dự án, tổng vốn đầu tư đạt gần 29,5 tỷ USD, tập trung vào các lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo, hoạt động kinh doanh bất động sản, sản xuất, phân phối điện, khí, nước… Trong đó, có các dự án quy mô lớn, đóng góp quan trọng trong việc phát triển một số lĩnh vực kinh tế của Việt Nam thời gian qua. Hợp tác đầu tư giữa hai bên có sự gắn kết chặt chẽ, bổ trợ lẫn nhau để cùng phát triển.

Việt Nam đang là điểm đến đầy hấp dẫn đối với nhà đầu tư Hồng Kông, Trung Quốc
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phát biểu tại sự kiện.

Theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, dự báo kinh tế thế giới năm 2023 có nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhiều tổ chức quốc tế đều dự báo mức tăng GDP của Việt Nam khoảng 6,5%. Moody’s và S&P đều xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam ở mức “ổn định” và “tích cực”. Theo WIPO, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2022 của Việt Nam về thể chế, phát triển thị trường, sáng tạo tăng hơn 20 bậc, xếp vị trí 48/132 quốc gia.

“Với những tín hiệu tích cực và khả quan trong sự phục hồi của nền kinh tế, tận dụng những lợi thế sẵn có, cùng với những nỗ lực mạnh mẽ của Chính phủ trong việc không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, Việt Nam đang trở thành điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. Theo UNCTAD, Việt Nam là 1 trong 20 nước tiếp nhận nhiều nhất FDI trên thế giới”, Thứ trưởng Trần Duy Đông nhấn mạnh.

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Jonathan Choi, Chủ tịch CGCC, GBA Union, HKVCC và Chủ tịch Tập đoàn Sunwah đánh giá, với lợi thế là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất trong khu vực, đặc biệt là trong giai đoạn hậu đại dịch, Việt Nam đang là điểm đến mới đầy sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Trung Quốc, đặc biệt là Hồng Kông và Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao.

“Sự gần gũi về địa lý và văn hóa tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam, Hồng Kông và và Khu vực Hồng Kông – Quảng Đông – Ma Cao trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thương mại, đầu tư và du lịch. Hoạt động thương mại của Việt Nam gắn kết chặt chẽ với Khu vực Quảng Đông – Hồng Kông – Ma Cao, một thị trường rộng lớn khoảng 86 triệu dân với những lợi thế riêng như tài nguyên phong phú, công nghiệp dịch vụ hiện đại, phát triển đồng bộ và toàn diện”, Tiến sĩ Jonathan Choi phân tích.

Việt Nam đang là điểm đến đầy hấp dẫn đối với nhà đầu tư Hồng Kông, Trung Quốc
Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp Hồng Kông và Việt Nam.

Thứ trưởng Trần Duy Đông khẳng định, trong thời gian tới, Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đô thị thông minh, dịch vụ logistics, thương mại và dịch vụ, tài chính xanh… Đây là những lĩnh vực mà doanh nghiệp Hông Kông có thế mạnh và cũng là những lĩnh vực mà Việt Nam khuyến khích thu hút đầu tư.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cam kết, cùng với nỗ lực chung của hai bên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục tham mưu những bước đột phá trong cải cách môi trường đầu tư kinh doanh, đổi mới phương thức hỗ trợ doanh nghiệp. Đồng thời, sẽ luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Hồng Kông đầu tư kinh doanh có hiệu quả tại Việt Nam.

]]>
Chính phủ ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP: Tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô https://doanhnhandautu.com/chinh-phu-ban-hanh-nghi-quyet-01-nq-cp-tiep-tuc-uu-tien-giu-vung-on-dinh-kinh-te-vi-mo/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:19 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3585 Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH, Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023. ]]>
Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH, Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023.
Chính phủ ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP: Tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô
Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Chính phủ với địa phương triển khai nhiệm vụ năm 2023. (Ảnh: Nhật Bắc)

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023.

Năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025. Dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến rất phức tạp, nhanh chóng, khó đoán định. Cạnh tranh chiến lược các nước lớn, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại gay gắt hơn. Xung đột quân sự tại Ukraine còn có thể kéo dài. Hậu quả đại dịch COVID-19 trên toàn cầu còn phải khắc phục nhiều năm. 

Lạm phát tiếp tục ở mức cao, xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất kéo dài tại nhiều quốc gia. Nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro, bất ổn về tài chính, tiền tệ, nợ công, bất động sản, an ninh năng lượng, lương thực, thông tin trên toàn cầu gia tăng. Kinh tế toàn cầu có xu hướng tăng trưởng chậm lại, một số quốc gia có dấu hiệu rơi vào suy thoái kinh tế. 

Trong nước, nền kinh tế có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất gia tăng; sản xuất kinh doanh tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức; các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp. 

Những tồn tại, hạn chế, bất cập từ nội tại nền kinh tế về cơ cấu kinh tế, năng lực sản xuất trong nước, các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản tích tụ từ lâu chưa được xử lý dứt điểm; quy mô nền kinh tế nước ta còn khiêm tốn nhưng độ mở lại lớn, khả năng cạnh tranh và sức chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài còn hạn chế; những yếu tố đột xuất, bất ngờ vẫn tiềm ẩn rủi ro, khó dự báo; dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, bão lũ tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng nặng nề hơn.

06 quan điểm, trọng tâm chỉ đạo điều hành 

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương phải quyết tâm, giữ vững tinh thần vượt khó, đoàn kết, tự lực, tự cường, chủ động thích ứng, linh hoạt, hành động quyết liệt, khoa học, hiệu quả, tích cực đổi mới, sáng tạo theo tinh thần chủ đề điều hành “Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả” với 06 quan điểm, trọng tâm chỉ đạo điều hành, gồm:

1- Bám sát Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; các Nghị quyết chuyên đề, các Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ. Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021 – 2030, các Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021 – 2025, trong đó chú trọng 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm và 12 nhóm giải pháp chủ yếu.

2- Tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, nhưng cũng không hoang mang, dao động; luôn bình tĩnh, tự tin, bản lĩnh, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, không chuyển trạng thái đột ngột, điều hành “giật cục”. Đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chung sức, đồng lòng quyết tâm hành động cao nhất theo tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” để tạo nên sức mạnh tổng hợp, sự đồng tâm nhất trí của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; thích ứng linh hoạt, hiệu quả với bối cảnh, tình hình để “biến nguy thành cơ”, kiên quyết khắc phục khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, thực chất, hiệu quả và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

3- Nâng cao năng lực phân tích, dự báo; chủ động đối với mọi tình huống, nhạy bén nắm bắt những diễn biến mới của tình hình, kịp thời, quyết liệt xử lý có hiệu quả các vấn đề, xây dựng các kịch bản, phương án linh hoạt, thích ứng với các vấn đề mới phát sinh. Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng và các chính sách khác; điều hành kịp thời các công cụ chính sách vĩ mô, tài khóa, tiền tệ để cân bằng hợp lý, hiệu quả giữa tỷ giá với lãi suất, giữa kiểm soát lạm phát với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phù hợp với tình hình thực tiễn.

4- Đồng bộ, thống nhất và quyết tâm, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, vừa tập trung xử lý hiệu quả các nhiệm vụ thường xuyên, các vấn đề tồn đọng kéo dài, vừa kịp thời ứng phó hiệu quả với những vấn đề cấp bách, bất ngờ phát sinh trong ngắn hạn, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp mang tính căn cơ trong trung và dài hạn. Tăng cường hoàn thiện thể chế, chú trọng thực hiện tốt công tác truyền thông, phản ứng chính sách trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tập trung tháo gỡ khó khăn, có các giải pháp chính sách hỗ trợ kịp thời, hiệu quả cho sản xuất kinh doanh; làm việc nào dứt điểm việc đó, không để kéo dài, gây ách tắc, lãng phí nguồn lực; bảo đảm đồng bộ các mục tiêu trước mắt và lâu dài, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.

5- Phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường bền vững, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, nhất là người có công, hộ nghèo, các đối tượng yếu thế ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và đồng bào dân tộc.

6- Tiếp tục củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế; bảo đảm môi trường ổn định, hòa bình, hợp tác để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững.

11 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

Nghị quyết nêu rõ 11 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023 gồm: 

1- Tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

2- Tiếp tục tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh.

3- Tăng cường xây dựng, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

4- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số; cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia

5- Đẩy mạnh thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tính độc lập, tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế

6- Tập trung phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, hạ tầng số. Tập trung bảo vệ môi trường, quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên

7- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao gắn với đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp

8- Chú trọng phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội; nâng cao đời sống Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội

9- Giữ vững độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội

10- Triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế

11- Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông; nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tạo đồng thuận xã hội.

Nghị quyết nêu rõ, trước ngày 20 tháng 01 năm 2023, xây dựng, ban hành Chương trình, Kế hoạch hành động, các văn bản cụ thể của bộ, ngành, địa phương để triển khai thực hiện Nghị quyết này; trong đó xác định rõ, đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ (bao gồm nhiệm vụ chủ trì và nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan liên quan trong tổ chức thực hiện), tiến độ thực hiện và phân công đơn vị chủ trì, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01 năm 2023.

 Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ động theo dõi sát diễn biến trong nước, quốc tế, nâng cao năng lực, tăng cường phân tích, đánh giá, dự báo để có giải pháp kịp thời, tổng thể, đồng bộ, tận dụng thời cơ, thuận lợi, giảm thiểu tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người dân; tăng cường chuyển đổi số, thực hiện công tác thống kê, báo cáo kịp thời, chính xác; định kỳ hằng quý cập nhật kịch bản phát triển ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý.

* Một số chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 (Kế hoạch năm 2023 Quốc hội giao): Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6,5%; GDP bình quân đầu người khoảng 4.400 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 25,4 – 25,8%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%; mức giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều 1-1,5%; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế 93,2%;…

]]>
Bến Tre cần 630.000 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2021-2030 https://doanhnhandautu.com/ben-tre-can-630-000-ty-dong-von-dau-tu-phat-trien-giai-doan-2021-2030/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:57 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3841 Bến Tre phấn đấu đến năm 2030 trở thành tỉnh có trình độ phát triển khá, thu hút hiệu quả nguồn lực đầu tư để mở rộng không gian phát triển tỉnh về hướng Đông gắn với kinh tế biển.]]>
Bến Tre phấn đấu đến năm 2030 trở thành tỉnh có trình độ phát triển khá, thu hút hiệu quả nguồn lực đầu tư để mở rộng không gian phát triển tỉnh về hướng Đông gắn với kinh tế biển.

Dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, sáng 13/1, Hội đồng thẩm định quy hoạch tỉnh đã đồng ý thông qua Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, với điều kiện có chỉnh sửa, bổ sung.

Theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương, với vị trí tiếp giáp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, chỉ cách Thành phố Hồ Chí Minh 86 km, tỉnh Bến Tre có hệ thống giao thông đường thủy với bốn sông chính hướng ra biển Đông và hệ thống kênh, rạch là các trục giao thông đối ngoại quan trọng gắn kết Bến Tre với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, rất thuận lợi cho việc phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội.

Đặc biệt, kể từ khi được Chính phủ quan tâm đầu tư xây dựng các cầu: Rạch Miễu (năm 2008), Hàm Luông (năm 2010) và Cổ Chiên (năm 2015) đã phá thế cô lập về giao thông đường bộ giúp tiềm năng kinh tế – xã hội của Bến Tre được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ. Kinh tế phát triển khá toàn diện; hạ tầng kinh tế – xã hội tiếp tục được đầu tư xây dựng; diện mạo đô thị và nông thôn có nhiều khởi sắc. Văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống người dân tiếp tục được cải thiện. An ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tỉnh Bến Tre vẫn còn những tồn tại, hạn chế như kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người không đạt chỉ tiêu Nghị quyết; tái cơ cấu ngành nông nghiệp chưa đạt yêu cầu; công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ, du lịch chưa tạo đột phá trong phát triển; hạ tầng kinh tế – xã hội thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng kết nối giữa các huyện, kết nối liên tỉnh; thiếu chủ động trong ứng phó hạn mặn; quản lý tài nguyên và môi trường còn hạn chế.

Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh, trong những năm tới, để đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, đưa tỉnh Bến Tre phát triển nhanh, bền vững, Bến Tre cần phải xây dựng một bản quy hoạch tỉnh có thể đề ra các phương án phát triển phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh, giải quyết các khó khăn, thách thức, đẩy mạnh thu hút đầu tư có chọn lọc. Bên cạnh đó, cần huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài địa phương để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội.

Bến Tre cần 630.000 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2021-2030
Hội nghị thẩm định Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 ngày 13/1.

Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam cho biết, tỉnh Bến Tre đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của Quy hoạch tỉnh trong giai đoạn tới, vì vậy trong quá trình lập Quy hoạch đã nghiên cứu, chọn lựa các định hướng, chiến lược phát triển và kịch bản phát triển để khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn lực nội tại của địa phương kết hợp với huy động các nguồn lực khác. Đồng thời, tỉnh Bến Tre xác định, Quy hoạch tỉnh phải nằm trong tổng thể chung của Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Quy hoạch ngành, Quy hoạch tổng thể quốc gia, vì vậy, trong quá trình lập Quy hoạch tỉnh đã nghiên cứu, lồng ghép các nội dung quan trọng của Quy hoạch vùng, Quy hoạch ngành đã được phê duyệt và bám sát theo định hướng của Quy hoạch tổng thể quốc gia.

Quy hoạch tỉnh Bến Tre sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ mở ra các thời cơ và cơ hội như: tỉnh sẽ có không gian phát triển mới, khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương; phát huy có hiệu quả các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững.

Theo báo cáo Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỉnh đề ra mục tiêu phát triển nhanh, toàn diện, bền vững, phấn đấu đến năm 2030 trở thành tỉnh có trình độ phát triển ở mức khá của cả nước dựa trên thu hút hiệu quả nguồn lực đầu tư để mở rộng không gian phát triển tỉnh về hướng Đông gắn với kinh tế biển. Có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, hạ tầng số đồng bộ, hiện đại và kết nối thuận lợi với các tỉnh trong vùng và cả nước…

Giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP bình quân 8,5-9,5%/năm, GRDP bình quân đầu người 83-85 tỷ đồng, huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 230.000 tỷ đồng. Giai đoạn 2026-2030, tỉnh đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 11-11,5%/năm, GRDP bình quân đầu người 138-142 triệu đồng, huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 400.000 tỷ đồng.

Trong 630.000 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển cần thiết cho giai đoạn 2021-2030, tỉnh Bến Tre dự kiến, vốn khu vực nhà nước khoảng 171.360 tỷ đồng (vốn ngân sách nhà nước khoảng 63.000 tỷ đồng), vốn ngoài nhà nước khoảng 416.430 tỷ đồng, vốn nước ngoài khoảng 42.210 tỷ đồng.

Các dự án động lực mà tỉnh xác định là xây dựng cầu Rạch Miễu 2; tuyến đường bộ ven biển kết nối tỉnh Bến Tre với tỉnh Trà Vinh, Tiền Giang; Bệnh viện đa khoa tỉnh Bến Tre, dự án lấn biển tại các huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạch Phú; dự án xây dựng Trường Đại học Tây Nam Bộ – Đại học Quốc gia TP.HCM; cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, các khu đô thị…

Tầm nhìn đến năm 2050, Bến Tre sẽ phát triển thịnh vượng, với đô thị sinh thái, hiện đại, thông minh, có môi trường sống lý tưởng cho người dân.

Quy hoạch tỉnh Bến Tre xác định 05 quan điểm phát triển tỉnh trong thời kỳ quy hoạch, trong đó nhấn mạnh quan điểm phát triển về hướng Đông (hướng biển với trọng tâm là kinh biển) là tầm nhìn xuyên suốt của thời kỳ quy hoạch với mục tiêu lấn biển tạo quỹ đất, mở rộng không gian phát triển mới.

Không gian phát triển của tỉnh sẽ chia thành 3 vùng là Vùng Bắc sông Hàm Luông, Vùng Nam sông Hàm Luông và Vùng ven biển; 5 hành lang kinh tế gồm 3 hành lang phát triển theo hướng Tây – Đông, 2 hành lang phát triển theo hướng Bắc – Nam. Đến năm 2030, tỉnh Bến Tre có tỷ lệ đô thị hóa đạt 50% với 37 đô thị.

]]>
MPI: Rộn ràng không khí Tết tại Hội thi gói bánh chưng xanh chào xuân Quý Mão 2023 https://doanhnhandautu.com/mpi-ron-rang-khong-khi-tet-tai-hoi-thi-goi-banh-chung-xanh-chao-xuan-quy-mao-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:18 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4315 Hội thi do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức trong 2 ngày 17 và 18/01/2023, với sự tham gia của các đơn vị thuộc Bộ. ]]>
Hội thi do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức trong 2 ngày 17 và 18/01/2023, với sự tham gia của các đơn vị thuộc Bộ.

Hội thi “Gói bánh chưng xanh – Chào Xuân Quý Mão 2023″ diễn ra thành công dưới sự chỉ đạo của Công đoàn Bộ Kế Hoạch và Đầu tư. Hội thi nhằm tạo điều kiện để đoàn viên công đoàn các đơn vị trực thuộc giao lưu, xây dựng tinh thần đoàn kết, vui tươi phấn khởi nhân dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các đoàn viên công đoàn được thể hiện tài năng, sự khéo léo của mình nhằm lưu giữ nét đẹp truyền thống về ngày Tết của quê hương, đất nước.

Các đội thi thuộc 19 đơn vị trực thuộc được Ban Tổ chức chuẩn bị lá dong, lạt buộc, khuôn gói bánh đồng thời phát nguyên liệu như gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ,…và bố trí mặt bằng để gói bánh, luộc bánh.

Sau hai ngày tổ chức, sáng 18/01/2023, ban giám khảo đã tiến hành chấm và trao giải cho các đơn vị tham gia. Trong đó có một giải đặc biệt được trao cho liên quân Vụ kinh tế địa phương và Cục quản lý Đăng ký kinh doanh; một giải A cho Thanh tra Bộ; hai giải B cho Cục Quản lý đấu thầu và Vụ Quản lý quy hoạch; ba giải C cho Cục Đầu tư nước ngoài, Vụ Kinh tế đối ngoại và Vụ Kinh tế công nghiệp và dịch vụ và một số giải khuyến khích.

MPI: Rộn ràng không khí Tết tại Hội thi gói bánh chưng xanh chào xuân Quý Mão 2023
Mâm cỗ đạt giải đặc biệt của hội thi. Ảnh: Phùng Chí Cường.
MPI: Rộn ràng không khí Tết tại Hội thi gói bánh chưng xanh chào xuân Quý Mão 2023
MPI: Rộn ràng không khí Tết tại Hội thi gói bánh chưng xanh chào xuân Quý Mão 2023
MPI: Rộn ràng không khí Tết tại Hội thi gói bánh chưng xanh chào xuân Quý Mão 2023
MPI: Rộn ràng không khí Tết tại Hội thi gói bánh chưng xanh chào xuân Quý Mão 2023
Ảnh: Phùng Chí Cường

 

]]>
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Cùng làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế https://doanhnhandautu.com/bo-truong-bo-ke-hoach-va-dau-tu-nguyen-chi-dung-cung-lam-nen-nhung-dieu-ky-dieu-moi-trong-phat-trien-kinh-te/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:56 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4579 Tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần tiên phong đổi mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn mong mỏi sẽ cùng với các cán bộ, nhân viên bản lĩnh, trí tuệ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nuôi khát vọng đồng hành cùng dân tộc, để làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.]]>
Tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần tiên phong đổi mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn mong mỏi sẽ cùng với các cán bộ, nhân viên bản lĩnh, trí tuệ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nuôi khát vọng đồng hành cùng dân tộc, để làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Cùng làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng.

Chung tay “vẽ hình hài” đất nước

Ngày 9/1/2023 có lẽ là một ngày đặc biệt đối với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Bởi ngày đó, tại kỳ họp bất thường lần thứ hai, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Nhìn ông rạng rỡ nụ cười, mắt lấp lánh niềm vui, sẽ hiểu ông đã vui thế nào khi Quy hoạch Tổng thể quốc gia được thông qua. Đó là thành quả của bao năm nỗ lực, bao tháng ngày suy tư, nghiên cứu của không chỉ cá nhân ông, mà còn của biết bao cán bộ, chuyên viên, chuyên gia, tư vấn, nhà khoa học…

“Đây là một công trình nghiên cứu hết sức đồ sộ và công phu, nghiêm túc, khoa học, với 41 hợp phần, gần 7.000 trang tài liệu.

Chung tay “vẽ hình hài” đất nướcNhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, dũng cảm vượt qua chính mình, vì lợi ích chung của đất nước, của dân tộc.Nhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới

– Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng

Gần 30 cơ sở viện, trường nghiên cứu, khoảng 100 nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế về quy hoạch tham gia công trình này”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã nói như vậy tại kỳ họp bất thường của Quốc hội, diễn ra vào những ngày đầu năm mới 2023.

Có lẽ, lần đầu tiên việc xây dựng quy hoạch được thực hiện công phu đến vậy. Không chỉ Quy hoạch Tổng thể quốc gia, ngành quốc gia, mà cả quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh cũng thế. Nghe nói, để chuẩn bị cho việc thẩm định quy hoạch, có địa phương đã chở cả một xe tải hồ sơ, tài liệu lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan thường trực của Hội đồng Thẩm định quy hoạch tỉnh để phục vụ công tác thẩm định. 

Sau khi Luật Quy hoạch được thông qua, tháng 9/2018, Chính phủ đã quyết định thành lập Hội đồng Quy hoạch quốc gia, mà Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng là Phó chủ tịch. Kể từ ngày ấy, ông cùng các cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mày mò nghiên cứu, tìm hiểu, kể cả đi khảo sát, học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài, rồi trăn trở hết ngày này qua tháng khác cùng các chuyên gia tư vấn, các nhà nghiên cứu, các bộ, ngành… để có thể “vẽ hình hài” đất nước.

Để đến bây giờ, “hình hài” ấy đã được định hình. Từ một bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, đến “khung” các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, nhằm đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng… Từ xác định được các vùng động lực, các cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia…, đến phác thảo các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Đông –  Tây, các vành đai kinh tế ven biển, các vành đai công nghiệp – đô thị – dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn…

Lúc Quy hoạch Tổng thể quốc gia được đưa ra Quốc hội thảo luận, cũng còn có ý kiến khác, ý kiến mang tính phản biện. Cũng dễ hiểu thôi, bởi đây là lần đầu tiên một bản quy hoạch tổng thể quốc gia được lập theo hướng tích hợp, rất khó và chúng ta chưa có kinh nghiệm. Nhưng Bộ trưởng rất cương quyết, “chỉ có thế tiến lên, quyết không lùi”.

Quyết không lùi là bởi quy hoạch này có tính dẫn dắt, mang tính nền tảng cho các quy hoạch khác, rất cấp thiết và quan trọng. Không kịp thông qua, sẽ ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành và các quy hoạch tỉnh khác. Không kịp thông qua, có thể sẽ bỏ lỡ cả một cơ hội phát triển của đất nước.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng đã quyết liệt khẳng định điều này cách đây ít năm, khi Luật Quy hoạch được đưa ra lấy ý kiến Quốc hội. Ông nói, Luật Quy hoạch chậm thông qua ngày nào sẽ ảnh hưởng đến tương lai phát triển của đất nước ngày ấy, thậm chí làm lỡ cả một thập kỷ phát triển ở phía trước. Quyết liệt thế, nên ông chẳng ngại động chạm, sẵn sàng “xông pha” trên mọi mặt trận để bảo vệ bằng được quan điểm của mình. Đó là phải làm một “cuộc cách mạng” trong công tác quy hoạch, nếu không sẽ vẫn tái diễn tình trạng quy hoạch manh mún, chồng chéo, kém hiệu quả, thiếu tính thị trường như bao lâu nay.

Thế nên, mới có chuyện từ 3.650 quy hoạch giảm chỉ còn 111 quy hoạch như hiện nay. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng nhất và khó nhất là thiết kế Quy hoạch Tổng thể quốc gia. Ngoài ra, phải xây dựng 6 quy hoạch vùng, 63 quy hoạch của các tỉnh và 39 quy hoạch của các ngành.

Suốt cả quá trình đồng hành với các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia trong xây dựng quy hoạch thời kỳ mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn nói rằng, công tác quy hoạch được ví như “người công binh mở đường”. Nếu mở đường thắng lợi, thì cuộc chiến sẽ thắng lợi, còn nếu làm không tốt sẽ dẫn đến thất bại, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước.

“Xây dựng Quy hoạch Tổng thể quốc gia là cơ hội bố trí, sắp xếp lại không gian phát triển của quốc gia để đạt mục tiêu, khát vọng mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao…”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng luôn nhấn mạnh điều này.

Bởi thế, việc Quốc hội thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia, quan trọng hơn hết, với Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, là có thể giúp “vạch đường đi” cho sự phát triển của đất nước. Cũng tương tự như thế, các quy hoạch tỉnh, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành sẽ là “kim chỉ nam” cho sự phát triển của tỉnh, của vùng và của các ngành kinh tế quốc gia.

“Công việc còn nặng nề lắm”, Bộ trưởng nói thế. Bởi cho tới giờ này, vẫn còn 5 quy hoạch vùng, 42 quy hoạch tỉnh chưa được thẩm định để hoàn thành, trình cấp có thẩm quyền quyết định, mà thời gian thì gấp gáp lắm rồi. Bộ Kế hoạch và Đầu tư không chỉ tham gia hướng dẫn, mà còn là cơ quan thường trực của Hội đồng Thẩm định, rồi hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, còn Bộ trưởng là Chủ tịch Hội đồng Thẩm định. Với hơn 30 quy hoạch ngành, dù không chủ trì, nhưng Bộ trưởng và các cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng vẫn phải cùng tham gia.

Suốt cả năm thấy ông và các cán bộ của mình bận rộn cho công tác lập quy hoạch. Hơi chậm so với tiến độ, nên càng về cuối năm, công việc càng áp lực nặng nề. Có tuần, 4 – 5 cuộc họp thẩm định quy hoạch được tổ chức. Cần kíp và phải đẩy nhanh, nhưng ông vẫn luôn nói rằng, phải đặt chất lượng lên hàng đầu và phải coi đây là cơ hội tổ chức, sắp xếp lại không gian phát triển, nhằm phát huy được tiềm năng, tận dụng được thế mạnh của từng vùng, khu vực, địa phương, từng ngành và lĩnh vực, tạo ra các động lực và cực tăng trưởng mới cho đất nước.

Tất cả là vì sự phát triển của dân tộc, của đất nước, vì một tương lai phát triển vững bền hơn trên con đường đi tới thịnh vượng! 

Nhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới
Việc Quốc hội thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia giúp “vạch đường đi” cho sự phát triển của đất nước.

Cùng làm nên những điều kỳ diệu trong phát triển kinh tế

Nụ cười của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, một năm trước, cũng rạng rỡ như thế ở phòng họp Diên Hồng. Bởi, cũng tầm này năm ngoái, Quốc hội đã chính thức thông qua gói tài chính, tiền tệ quy mô lớn nhất từ trước tới nay để thực hiện Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội 2022-2023, mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư và cá nhân Bộ trưởng, với tư cách là “Tư lệnh” của cơ quan tham mưu tổng hợp về điều hành kinh tế – xã hội, đề xuất.

Năm ngoái, Quốc hội quyết định tổ chức kỳ họp bất thường đầu tiên chủ yếu là để thông qua gói kích thích kinh tế đó. Năm nay, trọng tâm của kỳ họp bất thường thứ hai, chính là để thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia. Năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã họp phiên bất thường để thông qua gói hỗ trợ cho các doanh nghiệp, người lao động bị ảnh hưởng bởi Covid-19…

Họp bất thường, bởi đó đều là các quyết sách quan trọng, cần sớm được thông qua. Và người tham mưu cho các chính sách đó, không ai khác, chính là Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, với tư cách là “Tư lệnh” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Thế nên, khi tham dự và chỉ đạo Hội nghị Tổng kết năm 2022 và Phương hướng nhiệm vụ năm 2023 của ngành Kế hoạch – Đầu tư và Thống kê mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã nhắc lại nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, rằng “Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tổng tham mưu có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng”, để khẳng định những đóng góp to lớn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng như cá nhân Bộ trưởng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.

Thủ tướng còn nói, Bộ đã làm được rất nhiều việc, nhưng không nêu vào trong báo cáo, bởi còn bận lo việc chung, lo việc đất nước nhiều quá. Nghe Thủ tướng nói vậy, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng mỉm cười, bởi những đóng góp của toàn ngành đã được ghi nhận.

Ba năm nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 là ba năm Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng và các cán bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư bận rộn, vất vả vô cùng. Theo dõi từng biến động của dịch bệnh, diễn biến của kinh tế toàn cầu và trong nước, theo sát các hoạt động của doanh nghiệp, nhà đầu tư, tiến độ triển khai từng dự án… để có đề xuất, tham mưu các giải pháp kịp thời, vừa để gỡ khó, vừa để tạo nền tảng cho sự phát triển của nền kinh tế trong tương lai.

Nhờ thế, vượt thách thức Covid-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng dương. Đặc biệt, năm 2022, nền kinh tế phục hồi ngoạn mục, đạt mức tăng trưởng lên tới 8,02%. Có được điều đó là nhờ sự chủ động, linh hoạt trong điều hành của Chính phủ, sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, nhưng khởi đầu phải là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tham mưu chính sách. Không chỉ là các nghị quyết 01 như thường niên, mà còn là một chương trình tổng thể để phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Giữa năm 2021, những phác thảo đầu tiên của Chương trình được Bộ trưởng chỉ đạo các cán bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, sau đó được hoàn thiện dần, với mục tiêu rất rõ ràng là phải có quy mô đủ lớn, thời gian thực hiện đủ dài, hỗ trợ cả về phía cung và phía cầu… Quốc hội thông qua, lại là Bộ trưởng chỉ đạo thiết kế và tham mưu Chính phủ nghị quyết về thực hiện Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội.

“Các đồng chí đã tham mưu rất trúng và đúng. Đó là Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội tập trung vào 4 trọng tâm: an sinh xã hội, y tế, hạ tầng và doanh nghiệp”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã nói thế.

Chính sách được thông qua, lại miệt mài theo dõi và quyết liệt đốc thúc triển khai. Mà đâu chỉ riêng Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội, còn rất nhiều việc phải làm, từ đốc thúc giải ngân vốn đầu tư công, đến tháo gỡ khó khăn cho sản xuất – kinh doanh, cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh…

Nhiệm vụ khó khăn và nặng nề, nhưng tất cả đều hoàn thành đúng hạn. Nhờ vậy, từng tháng, từng quý, tình hình kinh tế – xã hội dần phục hồi. Cả năm 2022, 13/15 chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội đạt và vượt mục tiêu đề ra, đặc biệt là tăng trưởng GDP ở mức cao, nên vỡ òa trong cảm xúc mừng vui.

Nhưng Bộ trưởng nói, mừng đấy, mà lo đấy, bởi các thách thức, khó khăn của năm 2023 là rất lớn. Kinh tế thế giới diễn biến nhanh và khó lường, đầy rủi ro và các yếu tố bất định. Trong nước, những khó khăn đã phát lộ ngay từ cuối năm trước. Doanh nghiệp gặp khó vì thiếu đơn hàng, dòng tiền cũng khó. Thu hút đầu tư nước ngoài dù điểm tích cực là giải ngân đạt mức cao, nhưng thu hút mới lại vẫn trong xu hướng suy giảm, có thể ảnh hưởng đến giải ngân và việc tạo thêm năng lực mới cho nền kinh tế trong những năm sắp tới… Giải ngân vốn đầu tư công vẫn chưa đạt kỳ vọng…

Trong khi đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo, năm 2023, thành tựu đạt được phải cao hơn năm 2022.

“Nhiệm vụ là rất nặng nề. Phải giữ vững ngọn cờ đổi mới và cải cách, không ngừng đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, dũng cảm vượt qua chính mình, vì lợi ích chung của đất nước, của dân tộc”, Bộ trưởng đã nói thế với các cán bộ, nhân viên của toàn ngành Kế hoạch – Đầu tư và Thống kê.

Và hành trình kiến tạo hạnh phúc cho người dân

Đã là nhiệm kỳ thứ hai Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng được trao trọng trách Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Suốt chặng đường hơn 7 năm qua, ông luôn trăn trở với việc làm sao để hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng của đất nước. Vì khát vọng ấy, ông đã chọn con đường tiên phong đổi mới, ngay từ ngày mới nhậm chức và cho tới tận bây giờ, ngọn cờ đổi mới, ngọn lửa cải cách trong ông luôn bừng sáng.

Ông vẫn luôn nói với các cán bộ, nhân viên Bộ Kế hoạch và Đầu tư rằng, toàn ngành phải không ngừng đổi mới và cải cách, phải trang bị một hệ thống tư duy tổng hợp, mang tầm chiến lược, bao quát cả những vấn đề ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của đất nước; đồng thời, bắt kịp xu hướng vận động, phát triển mới của thế giới, để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, góp phần cùng cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân từng bước hiện thực hóa khát vọng tương lai xây dựng đất nước phồn vinh, thịnh vượng và hạnh phúc.

Lo cho không chỉ ngắn hạn, mà cả trung và dài hạn, nên năm 2022, có thể nói đã ghi dấu ấn quan trọng trong sự thay đổi về mặt tư duy và nhận thức của cán bộ toàn ngành. Công tác trọng tâm đã được chuyển từ phân bổ kế hoạch sang xây dựng cơ chế, thể chế, chính sách pháp luật; từ trạng thái thực hiện sang trạng thái tham mưu, kiến tạo sự phát triển…

Hiếm có năm nào mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại thực hiện việc tham mưu cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội các địa phương và vùng lãnh thổ nhiều đến như thế. Từ việc chủ trì xây dựng các nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển cho địa phương, như Cần Thơ, Khánh Hòa, hay Buôn Ma Thuột… đến việc tham mưu xây dựng các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển 6 vùng kinh tế, cũng như chủ trì xây dựng chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện các nghị quyết này…

“Tư duy mới – Tầm nhìn mới” là điều đã luôn được Bộ trưởng nhắc đến khi nói về việc triển khai các nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị.

Hơn một lần, Bộ trưởng nhấn mạnh, đã đến lúc chúng ta phải tự hoạch định con đường phát triển của riêng mình, đặt ra các mục tiêu lớn để nỗ lực phấn đấu và bứt tốc, để có thể tiến cùng và vượt lên trong hành trình đi tới tương lai thịnh vượng của đất nước.

Kinh tế năm 2023 còn khó khăn, phía trước còn nhiều thách thức, nhưng cũng có rất nhiều cơ hội đang được mở ra. Sau phục hồi, sẽ là cơ hội để nền kinh tế bứt tốc, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững trong tương lai. Các cơ chế, chính sách mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như cá nhân Bộ trưởng tham mưu, từ Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội, các cơ chế – chính sách để phát triển các vùng kinh tế, các đầu tàu kinh tế của cả nước, đặc biệt là Quy hoạch Tổng thể quốc gia… sẽ là “chìa khóa” để nền kinh tế đi tới phồn vinh và hạnh phúc.

Trong hành trình ấy, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng luôn nói rằng, không được để ai bị bỏ lại phía sau. Bởi thế, trong bộn bề công việc, vẫn thấy ông rất chân tình và cởi mở tới thăm, động viên và bảo trợ cho các nhóm người yếu thế trong xã hội. Nhìn nụ cười hồn hậu và cái bắt tay ấm áp, thân tình của ông với những người khiếm thị, khiếm thính, với các “chiến binh” của Công ty Kym Việt, hay HTX Tâm Ngọc, Nhóm Thương Thương…, càng thấu hiểu “tâm và tầm” của Tư lệnh ngành Kế hoạch và Đầu tư. Khi chúng ta có tầm nhìn, tâm sáng và tấm lòng nhiệt huyết, chúng ta sẽ hết mình lo cho dân, cho nước…

Nhớ hôm Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Chương trình Tự hào Việt Nam, giữa sân Đoan Môn của Di tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long, vào đúng thời khắc thiêng liêng chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã kêu gọi cán bộ, nhân viên toàn ngành đồng lòng thống nhất tinh thần “Tự hào với lịch sử càng cao thì trách nhiệm với hiện tại và tương lai càng lớn”, và cùng nhau truyền tải thông điệp “Người dân là trọng tâm của phát triển, mọi chính sách phải hướng tới hạnh phúc người dân”. Ông nói, thông điệp ấy phải xuyên suốt trong mọi hoạt động tham mưu, hoạch định chính sách của ngành Kế hoạch – Đầu tư và Thống kê.

“Mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động toàn ngành hãy không ngừng truyền tải thông điệp mạnh mẽ về Trí Tuệ – Đạo Đức – Bản Lĩnh và Nghị Lực; luôn tu dưỡng, rèn luyện bản thân, kết hợp với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, nỗ lực hết mình để cùng lan tỏa ngọn lửa nhiệt huyết, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường, vì khát vọng phát triển, xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, sánh vai với cường quốc 5 châu như mong ước của Bác Hồ kính yêu, mọi người dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã nhấn mạnh như vậy.

Hành trình thịnh vượng của đất nước, hành trình hạnh phúc của người dân dường như đang được khởi nguồn từ những hạt mầm nỗ lực ngày hôm nay, bắt đầu từ mỗi con người của Bộ Kế hoạch và Đầu tư…

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng luôn nhấn mạnh rằng, giá trị cốt lõi và cũng là tài sản lớn nhất mà ngành Kế hoạch và Đầu tư đã có, đang có và sẽ có, là bản lĩnh, trí tuệ, là khát vọng vươn lên, cống hiến, để đồng hành cùng dân tộc, làm nên những điều kỳ diệu mới trong phát triển kinh tế, hướng tới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.

Tâm niệm ấy, khát vọng ấy của Bộ trưởng đang từng ngày, từng giờ được truyền tải tới mỗi cán bộ, nhân viên Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và toàn ngành.

]]>
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thúc chọn thầu xây nhà ga hành khách Sân bay Long Thành https://doanhnhandautu.com/bo-ke-hoach-va-dau-tu-thuc-chon-thau-xay-nha-ga-hanh-khach-san-bay-long-thanh/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:16 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5177 Gói thầu 5.10 – xây dựng nhà ga hành khách được coi là đường găng quyết định tới tiến độ hoàn thành của Dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1.]]>
Gói thầu 5.10 – xây dựng nhà ga hành khách được coi là đường găng quyết định tới tiến độ hoàn thành của Dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1.
Phối cảnh nhà ga hàng khách T3 Tân Sơn Nhất.
Phối cảnh nhà ga hành khách – Cảng hàng không quốc tế Long Thành.

Theo thông tin của Báo điện tử Đầu tư – Baodautu.vn, Bộ Kế hoạch và đầu tư vừa có công văn số 351/BKHĐT – QLĐT gửi Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam – ACV về công tác lựa chọn nhà thầu Gói thầu 5.10 thuộc Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1.

Tại công văn này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, việc ACV hủy thầu Gói thầu 5.10 sẽ dẫn đến phải tổ chức lựa chọn lại nhà thầu, làm kéo dài thời gian lựa chọn nhà thầu, ảnh hưởng đến tiến độ gói thầu và toàn Dự án. Vì vậy, với vai trò là người có thẩm quyền, chủ đầu tư, ACV cần khẩn trương tổ chức lựa chọn nhà thầu lại để đảm bảo tiến độ triển khai công trình.

Trong quá trình tổ chức lại việc lựa chọn nhà thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị ACV nghiên cứu kỹ các ý kiến làm rõ hồ sơ mời thầu (HSMT) mà các nhà thầu trong và ngoài nước yêu cầu để xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến việc không thu hút nhà thầu nước ngoài tham dự.

Do đây là gói thầu quy mô lớn, tính chất phức tạp, gồm nhiều hạng mục công trình nên ACV cần rà soát, nghiên cứu về phạm vi, quy mô, tính chất kỹ thuật (mức độ phức tạp), thời gian hoàn thành từng hạng mục công trình và tổng thể gói thầu, đồng thời thu thập thông tin, nghiên cứu năng lực, kinh nghiệm của các tập đoàn, công ty có uy tín trong nước (quan tâm tới dự án) và đã tham gia xây dựng cảng hàng không lớn trong khu vực và thế giới trong những năm gần đây để có cơ sở lập hồ sơ mời thầu cho phù hợp, bảo đảm không hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng.

Trường hợp gói thầu xây lắp không tổ chức lựa chọn nhà thầu qua mạng, khi lập HSMT, chủ đầu tư, bên mời thầu vận dụng các Mẫu E-HSMT ban hành kèm theo Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT trên cơ sở bảo đảm không trái quy định của Luật Đấu thầu, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (khoản 8 Điều 39 Thông tư số 08/2022/TT- BKHDT).

Trường hợp xác định là gói thầu hỗn hợp (cung cấp hàng hóa và xây lắp), ACV áp dụng đấu thầu rộng rãi quốc tế thì thực hiện theo quy định tại Thông tư số 11/2016/TT-BKHĐT ngày 26/7/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Bộ Kế hoạch và đầu tư nhấn mạnh, trong mọi trường hợp, việc tổ chức lựa chọn nhà thầu phải bảo đảm mục tiêu của công tác đấu thầu là cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế, lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu, tránh trường hợp tổ chức lựa chọn lại nhà thầu mà vẫn chỉ có một nhà thầu liên danh trong nước, không có nhà thầu quốc tế tham dự.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tư cách là người quyết định đầu tư, người có thẩm quyền, ACV chịu trách nhiệm quyết định và chỉ đạo việc giám sát, theo dõi hoạt động đấu thầu đối với Gói thầu 5.10 theo quy định tại khoản 2 Điều 126 Nghị định số 63/2014/NĐ- CP.

“Trường hợp phát sinh khó khăn, vướng mắc trong quá trình lựa chọn nhà thầu, đề nghị ACV báo cáo các cấp có thẩm quyền để kịp thời xử lý, không làm ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ GTVT, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và các bộ, ngành liên quan để hỗ trợ ACV triển khai dự án đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo quy định của pháp luật”, công văn số 351 nêu rõ.

Được biết, Gói thầu 5.10 có giá trị hơn 35.233 tỷ đồng bao gồm việc thiết kế bản vẽ thi công và thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị công trình nhà ga hành khách thuộc dự án thành phần 3, các công trình thiết yếu trong cảng hàng không thuộc Dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành.

Đây là gói thầu có giá trị lớn nhất trong tất cả các gói thầu của công trình nhà ga hành khách Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1.

ACV đã đăng tải thông báo mời thầu vào ngày 20/9/2022, đến thời điểm đóng thầu (9h30 ngày 8/11/2022) chỉ có 1 nhà thầu liên danh nộp hồ sơ dự thầu. Do vậy, ACV đã xử lý tình huống theo Điều 117 Nghị định số 63/2014/NĐ – CP để gia hạn thời điểm đóng thầu thêm 15 ngày (đến ngày 23/11/2022). Tuy nhiên, đến thời điểm đóng thầu vẫn chỉ có 1 nhà thầu liên danh nộp hồ sơ dự thầu nên ACV tiếp tục gia hạn thời điểm đóng thầu (lần 2) thêm 7 ngày (đến ngày 30/11/2022).

Đến thời điểm đóng thầu, vẫn chỉ có 1 nhà thầu liên danh nộp hồ sơ dự thầu là Conteccons – Vinaconex – Centra – Phục Hưng Holdings – REE – Hòa Bình – HAWEE.

ACV đã tổ chức mở thầu và đánh giá hồ sơ dự thầu của nhà thầu liên danh nói trên và có Quyết định số 4902/QĐ – TCTCHKVN ngày 16/12/2022 hủy thầu Gói thầu 5.10 do hồ sơ dự thầu của nhà thầu không đáp ứng yêu cầu về kinh nghiệm thực hiện hợp đồng tương tự theo yêu cầu của HSMT.

]]>