#BIDV – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sat, 09 Aug 2025 10:12:30 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg #BIDV – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 BIDV Lạng Sơn trao 20 triệu đồng giúp gia đình ‘độc nhất’ hai con khiếm thị, thiểu năng trí tuệ https://doanhnhandautu.com/bidv-lang-son-trao-20-trieu-dong-giup-gia-dinh-doc-nhat-hai-con-khiem-thi-thieu-nang-tri-tue/ Sat, 09 Aug 2025 10:12:27 +0000 https://doanhnhandautu.com/bidv-lang-son-trao-20-trieu-dong-giup-gia-dinh-doc-nhat-hai-con-khiem-thi-thieu-nang-tri-tue/

Chiều ngày 25/7, tại tỉnh Lạng Sơn, Hội Chữ thập đỏ tỉnh đã phối hợp với Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Lạng Sơn (BIDV Lạng Sơn) tổ chức chương trình thăm và tặng quà cho gia đình bà Chu Thị Bích, sinh năm 1948, cư trú tại khối 29, phường Kỳ Lừa, tỉnh Lạng Sơn. Gia đình bà Bích hiện là hộ nghèo và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do có hai người con bị ảnh hưởng nặng nề bởi chất độc da cam.

Phó Giám đốc BIDV Lạng Sơn Hoàng Văn Huy trao quà cho gia đình bà Chu Thị Bích, phường Kỳ Lừa, tỉnh Lạng Sơn
Phó Giám đốc BIDV Lạng Sơn Hoàng Văn Huy trao quà cho gia đình bà Chu Thị Bích, phường Kỳ Lừa, tỉnh Lạng Sơn

Cụ thể, anh Chu Văn Hưởng bị thiểu năng trí tuệ và chị Chu Thị Hằng bị khiếm thị cả hai mắt, những di chứng đau xót từ bố của họ. Những trường hợp như gia đình bà Bích đã làm nổi bật lên những thách thức mà nhiều hộ gia đình tại tỉnh Lạng Sơn đang phải đối mặt, đòi hỏi sự quan tâm và hỗ trợ từ cộng đồng.

Trong nỗ lực hỗ trợ, BIDV Lạng Sơn đã gắn địa chỉ nhân đạo cho gia đình bà Bích trong hai năm (2024 và 2025) với tổng số tiền hỗ trợ lên đến 48 triệu đồng, tương đương 2 triệu đồng mỗi tháng. Đây là một hành động thiết thực, thể hiện tinh thần trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc hỗ trợ các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Trong khuôn khổ chương trình, Hội Chữ thập đỏ tỉnh Lạng Sơn và BIDV Lạng Sơn đã trao tặng gia đình bà Bích số tiền 20 triệu đồng. Hoạt động này được tổ chức nhân kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2025), không chỉ thể hiện lòng biết ơn đối với những người có công mà còn minh chứng cho tinh thần “tương thân tương ái” của cộng đồng.

Những hỗ trợ này mang đến niềm hy vọng và sự động viên thiết thực cho những gia đình chính sách đang cần giúp đỡ. Thông qua các hoạt động này, Hội Chữ thập đỏ tỉnh Lạng Sơn và BIDV Lạng Sơn đã thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm xã hội của mình, góp phần giúp gia đình bà Bích và nhiều hộ gia đình khác tại tỉnh Lạng Sơn vượt qua khó khăn, xây dựng cuộc sống tốt hơn.

BIDV Lạng Sơn đã và đang tích cực triển khai nhiều hoạt động CSR (Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp), giúp đỡ nhiều hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, thể hiện vai trò là một doanh nghiệp vì cộng đồng.

]]>
Có nên gửi tiết kiệm kỳ hạn dài ngày khi lãi suất tăng? https://doanhnhandautu.com/co-nen-gui-tiet-kiem-ky-han-dai-ngay-khi-lai-suat-tang/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:27 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3508 Các dự báo đưa ra từ giới phân tích tài chính, trước áp lực thắt chặt tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ còn tác động lên lãi suất tiền đồng tăng nửa đầu 2023. ]]>
Các dự báo đưa ra từ giới phân tích tài chính, trước áp lực thắt chặt tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ còn tác động lên lãi suất tiền đồng tăng nửa đầu 2023.

Cùng với đó là áp lực lạm phát trong nước đi lên, nên mặt bằng lãi suất tiết kiệm tiền đồng chưa thể hạ nhiệt cho đến hết quý II/2023. Vì thế, tùy vào mục đích sử dụng vốn, song gửi tiết kiệm kỳ hạn dài ngày vẫn được xem là có lợi trong bối cảnh lãi suất tăng cao. Còn các kênh đầu tư khác (bất động sản, chứng khoán…) chưa hồi phục hiện nay. 

Lãi suất sẽ tăng thêm 1-1,5%

Trong báo cáo phân tích mới phát hành, Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) dự báo, lãi suất huy động và lãi suất cho vay còn dư địa tăng trong năm 2023. Cụ thể, áp lực lớn nhiều hơn vào thời điểm 6 tháng đầu năm nay, sau đó sẽ dần hạ nhiệt nửa cuối năm.

VCBS dự báo, lãi suất huy động dự báo đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm với mức tăng 1-1,5%. Như vậy, VCSB đánh giá, áp lực tăng lên của mặt bằng lãi suất vẫn còn. 

Lãi suất sẽ tăng thêm 1-1,5%

Sở dĩ áp lực lãi suất tiền gửi trong nước còn tăng theo VCBS là do quá trình tăng lãi suất ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6/2023.

Đồng thời, sau sự việc liên quan đến Ngân hàng SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định ưu tiên cao nhất của là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Tuy vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, ngân hàng cổ phần vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

Nhưng điểm tích cực là Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra thông điệp điều hành về việc tiếp tục điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Trong điều kiện thuận lợi, lãi suất điều hành có thể không tăng thêm trong năm 2023. Mặt bằng lãi suất kỳ vọng đạt đỉnh trong nửa đầu 2023, sau đó đi ngang và hạ nhiệt nửa cuối năm 2023.

Giới phân tích tài chính cho rằng, tình hình đầu quý III/2023 sẽ dần dễ thở hơn, lãi suất sẽ bắt đầu giảm từ cuối quý II/2023. Lạm phát năm 2023 sẽ theo hướng cao trong những tháng đầu năm nhưng giảm dần về cuối năm. Tuy nhiên, các chuyên gia đã dự báo về lãi suất, đồng thời nhận định 2023 sẽ là một năm khó khăn nhưng sẽ xuất hiện ánh sáng cuối đường hầm.

Mặc dù, biến động lãi suất cho vay có độ trễ so với lãi suất huy động, song năm 2023 lãi suất cho vay được dự báo còn dư địa tăng. Tuy nhiên, trong trường hợp lãi suất huy động tạo đỉnh trong nửa đầu 2023, lãi suất cho vay có thể ghi nhận mức tăng thấp hơn lãi suất huy động, tiếp tục có sự phân hóa mạnh giữa các ngành nghề, phân loại ưu tiên.

VCBS cũng cho rằng, khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp vẫn khó khăn hơn khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ đủ lớn để thực hiện dự án tăng lên. Đồng thời, rủi ro nợ xấu tăng lên cùng hạn mức tín dụng không quá dư thừa khiến các ngân hàng thương mại sẽ lựa chọn kỹ càng hơn với danh mục phê duyệt tín dụng.

Phân tích về yếu tố lãi suất năm 2022, TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia cho rằng, khi nói đến lãi suất, người ta quan tâm nhiều đến lãi suất thực, tức là lãi suất đó trừ đi lạm phát.

Hiện lãi suất tiền gửi kỳ hạn một năm khoảng 9,4%, mà lạm phát 6,2% thì lãi suất thực khoảng 6,2%. Lãi suất cho vay hiện đang khoảng 12,6%, mà lạm phát có 3,2% thì lãi suất thực cho vay hiện trên 9%.

Theo TS. Nghĩa, ở Mỹ, lạm phát đang ở 8%, lãi suất 3,5% – 4% thì lãi suất thực là -4%, còn Việt Nam đang là 9%, tức cao hơn lãi suất thực của Mỹ hơn 13%. Nếu so sánh với châu Âu, lạm phát 10% mà lãi suất cho vay còn thấp hơn của Mỹ thì lãi suất thực của Việt Nam còn cao hơn nữa.

Vì thế, Việt Nam đang có lãi suất thực cao nhất thế giới hiện nay khiến doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với doanh nghiệp Mỹ, châu Âu trong bối cảnh chi phí tài chính cao.

Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có yêu cầu các ngân hàng tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay, song trước áp lực chi phí đầu vào tăng, ngân hàng có kiềm được lãi suất cho vay ra, đồng thời room tín dụng hạn chế cũng là yếu tố tác động lên lãi suất.

Nên gửi tiết kiệm kỳ hạn dài?

Mặt bằng lãi suất tiết kiệm hiện đã dần ổn định so với thời điểm tăng cao đầu tháng 12/2022, các ngân hàng thành viên cũng đã đưa lãi suất tiền gửi về mức tối đa 9,5%/năm đối với kỳ hạn dài sau cam kết với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, dù còn lác đắc một vài nhà băng niêm yết lãi suất cao hơn mức trên. 

Thế giới, các nhà phân tích tài chính cho rằng, trước các dự báo lãi suất tiền gửi còn đi lên trong nửa đầu năm nay trong khi các kênh đầu tư khác (bất động sản, chứng khoán) chưa hồi phục thự sự thì tiết kiệm vẫn được cho là lựa chọn tốt nhất trong lúc này.

Không những vậy, người có tiền nhàn rỗi cũng đang từng bước cân nhắc nên gửi tiết kiệm dài ngày để hưởng lãi suất tiết kiệm cao hơn, với mức tối đa 9,5%/năm, thậm chí lên 10-11%/năm nếu có khoản tiền giá trị lớn và gửi trên 1 năm… sẽ được cộng thêm biên độ lãi suất. 

Thực tế hiện nay cho thấy, dù vừa rồi các ngân hàng thương mại đồng loạt cam kết giảm lãi suất huy động xuống dưới 9,5%/năm, song theo giới phân tích lộ trình thực hiện giảm lãi suất nhiều khả năng sẽ cần thêm thời gian, nhất là khi thanh khoản một số ngân hàng nhỏ vẫn còn gặp khó khăn.

Vả lại, với quy định giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng đang tằng dần lãi suất tiền gửi ở kỳ hạn dài ngày.

Ngay cả các ngân hàng có vốn nhà nước như: Vietcombank, BIDV đang niêm yết lãi suất cao nhất chỉ 7,4%/năm. Cụ thể, Vietcombank áp dụng lãi suất 7,4%/năm cho các kỳ hạn từ 12 – 60 tháng; lãi suất kỳ hạn 6 và 9 tháng là 6%/năm.

Nhưng đáng chú ý ở các ngân hàng quy mô nhỏ và vừa, lãi suất niêm yết tối đa đối với kỳ hạn dài là 9,5%/năm. Riêng NCB niêm yết biểu lãi suất huy động tiền gửi với mức cao nhất 9,9%/năm cho khách hàng gửi kỳ hạn từ 13 tháng trở lên.

Khách hàng gửi tiết kiệm kỳ hạn 10 – 12 tháng sẽ nhận được mức lãi 9,7%/năm; từ 7 – 9 tháng lãi 9,6%/năm và kỳ hạn 6 tháng 9,5%/năm. Do đó, ở thời điểm này tiết kiệm vẫn được xem là kênh đầu tư hấp dẫn nhất.

Bước qua quý III/2023, lãi suất huy động dự báo sẽ hạ nhiệt. Khi đó, chứng khoán nhiều khả năng sẽ trở thành kênh đầu tư hấp dẫn giới đầu tư hơn, với vùng mua an toàn hơn, dòng tiền cá nhân có thể nhập cuộc trở lại, giúp thị trường sôi động trở lại.

Vì thế, trong bối cảnh hiện nay ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc Tư vấn đầu tư của Maybank Investment Bank cũng cho rằng, gửi tiết kiệm vẫn là kênh đầu tư tốt nhất trong nửa đầu năm 2023.

Tuy vậy, các nhà phân tích tài chính cho rằng, việc chọn gửi tiết kiệm kỳ hạn ngắn hay dài còn tùy thuộc vào mục đích sử dụng vốn của từng cá nhân, nhà đầu tư.

Chẳng hạn, với những người xem tiết kiệm là khoản tích góp dài hạn có thể chọn kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên để được hưởng lãi suất cao. Trong khi những người có kế hoạch đầu tư thay vì để tiền trong ngân hàng sẽ ưu tiên chọn kỳ hạn ngắn như 6 tháng trở xuống để có thể linh hoạt về vốn.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, huy động vốn đến cuối tháng 12/2022 tăng khoảng 6%. Con số này cao hơn những tháng trước cho thấy dòng tiền gửi tiết kiệm đã quay trở lại hệ thống.

Như vậy, sau khi lãi suất huy động tăng mạnh, tiền gửi tại hệ thống ngân hàng cũng có diễn biến tích cực trong những tháng cuối năm. Tuy nhiên, mức tăng trưởng 6% của huy động vốn cho cả năm 2022 vẫn thấp hơn nhiều so với những năm trước.

Riêng tại địa bàn TP.HCM, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM ông Nguyễn Đức Lệnh cho hay, huy động vốn trên địa bàn thành phố năm nay ước tăng khoảng 6%, còn dư nợ tín dụng tăng khoảng 14%.

Theo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM, từ quý III/2022, lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại tăng liên tục với mức tăng từ 2 – 3%/năm so với đầu năm. Lãi suất dao động từ 6 – 10%/năm đã thu hút lượng tiền nhàn rỗi trên thị trường.

Tính chung huy động vốn của các ngân hàng trên địa bàn thành phố trong năm 2022 tăng khoảng 6%. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm dân cư chiếm 37,2% trong tổng huy động vốn và tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng chung, tăng 9,2% so với cuối năm 2021.

]]>
Cổ phiếu ngân hàng sẽ dẫn sóng đầu năm 2023? https://doanhnhandautu.com/co-phieu-ngan-hang-se-dan-song-dau-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:29:13 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=3654 Lợi nhuận ngân hàng được dự báo sẽ là điểm sáng trong mùa công bố báo cáo tài chính quý IV/2022, diễn ra sau Tết Nguyên đán. Đây là yếu tố hỗ trợ cổ phiếu vua tiếp tục bứt phá.]]>
Lợi nhuận ngân hàng được dự báo sẽ là điểm sáng trong mùa công bố báo cáo tài chính quý IV/2022, diễn ra sau Tết Nguyên đán. Đây là yếu tố hỗ trợ cổ phiếu vua tiếp tục bứt phá.
Cổ phiếu ngân hàng sẽ dẫn sóng đầu năm 2023?
Năm 2022, lợi nhuận trước thuế riêng lẻ của Vietcombank đạt gần 36.800 tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2021. Ảnh: Đức Thanh

Ngân hàng lớn hé lộ lợi nhuận

Dù báo cáo tài chính quý IV/2022 chưa được công bố, song theo dự báo của các chuyên gia phân tích, năm 2022, bức tranh lợi nhuận ngân hàng có sự phân hóa mạnh, cùng sự trở lại của nhóm ngân hàng thương mại có vốn nhà nước. Sau 2 năm “ghìm” tăng trưởng để hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, tích cực trích lập dự phòng rủi ro, lợi nhuận của khối ngân hàng này đã tăng mạnh trở lại.

Kết thúc năm 2022, lợi nhuận trước thuế riêng lẻ của Vietcombank đạt gần 36.800 tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2021. Con số này tại BIDV là 22.560 tỷ đồng, tăng gần 80% và tại VietinBank là 20.500 tỷ đồng, tăng 21,5% so với năm 2021.

Tín dụng được rót vào lĩnh vực ưu tiên, lãi suất được kiểm soát ở mức hợp lý, chất lượng tài sản tốt… là những lý do khiến các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước được Ngân hàng Nhà nước ưu ái cấp room tín dụng, từ đó cải thiện kết quả kinh doanh. Năm 2022, tín dụng của các ngân hàng này đều tăng mạnh, trong khi nợ xấu được kiểm soát chặt.

Tính đến cuối năm 2022, tỷ lệ nợ xấu của BIDV chỉ còn 0,9%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 245%, mức cao nhất trong những năm gần đây, số dư quỹ dự phòng rủi ro lên tới 40.000 tỷ đồng. Tại Vietcombank, tỷ lệ nợ xấu chỉ 0,67% và bao phủ nợ xấu cũng lên trên 465%, dự phòng rủi ro lên tới. Tại VietinBank, nợ xấu cũng chỉ 1,2%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu xấp xỉ 190% (tăng 10% so với năm 2021)…

Khối ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân chưa công bố lợi nhuận, song dự báo, các ngân hàng tốp đầu vẫn giữ được mức tăng trưởng khả quan, nhất là các ngân hàng có dư nợ trái phiếu doanh nghiệp không quá lớn. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ và các ngân hàng có dư nợ trái phiếu lớn có khả năng tăng trưởng chững lại trong quý IV/2022.

Kết quả khảo sát mới đây của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, theo nhiều tổ chức tín dụng, kết quả kinh doanh quý IV/2022 không đạt mức kỳ vọng. Dù vậy, tính chung trong năm 2022, có 80% tổ chức tín dụng nhận định tình hình kinh doanh tổng thể “cải thiện” so với năm 2021.

Cổ phiếu vua sẽ dẫn sóng năm 2023?

Theo các chuyên gia phân tích VNDirect, năm 2022, lợi nhuận ngành ngân hàng tăng khoảng 32%. Năm 2023, tăng trưởng lợi nhuận ngành ngân hàng sẽ giảm tốc, tăng trưởng chỉ khoảng 10% do tăng trưởng tín dụng chậm lại, biên lãi ròng (NIM) thu hẹp và chi phí tín dụng tăng. Mặc dù vậy, cơ hội vẫn được mở ra với các ngân hàng có định giá rẻ, bộ đệm vốn vững chắc, chất lượng tài sản lành mạnh, tỷ lệ an toàn vốn cao, cơ cấu tín dụng lành mạnh, tham gia tái cơ cấu hệ thống… Đây sẽ là các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước ưu tiên trong cấp room tín dụng năm 2023.

Bà Nguyễn Hoài Phương, Giám đốc Đầu tư, người điều hành Quỹ Đầu tư cổ phiếu tiếp cận thị trường Việt Nam (VESAF) thuộc VinaCapital cho hay, năm 2023, Quỹ VESAF sẽ cân nhắc tăng tỷ trọng nắm giữ cổ phiếu ngân hàng, nhất là các ngân hàng có lợi thế cạnh tranh về các chỉ số thanh khoản, danh mục cho vay đa dạng và quản trị rủi ro tốt.

Năm 2022, cổ phiếu ngân hàng đã trải qua thời kỳ sóng gió, khi chỉ có 2 mã tăng giá (VCB và BID), 25/27 mã giảm giá, có mã giảm tới hơn 50%. Thanh khoản của cổ phiếu ngân hàng cũng giảm mạnh so với trước. Mặc dù vậy, năm 2023, cổ phiếu ngân hàng được kỳ vọng sẽ dẫn sóng trở lại sau khi định giá ngành ở mức thấp nhất 10 năm qua. Tuy nhiên, nhiều khả năng, thị trường sẽ có thử thách trong nửa đầu năm 2023, trước khi tăng trưởng theo chiều hướng tích cực vào nửa cuối năm.

Dĩ nhiên, không phải cổ phiếu ngân hàng nào cũng là cổ phiếu tốt. Giới phân tích đánh giá cao các ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán lẻ và tiền gửi không kỳ hạn (CASA) cao, cũng như bộ đệm thanh khoản và dự phòng rủi ro tốt.

Thực tế, tuần đầu tiên của năm 2023, cổ phiếu ngân hàng được giao dịch khá tích cực. Ông Lê Đức Khánh, Giám đốc phân tích, Công ty Chứng khoán VPS cho rằng, hiện vẫn còn quá sớm để nhận định về xu hướng tăng trưởng của nhóm cổ phiếu vua, song nhiều khả năng, nhóm ngân hàng đang dẫn dắt thị trường về các vùng 1.060 – 1.080 – 1.100 điểm trước khi nhường vai trò cho các nhóm ngành khác có mức vốn hóa nhỏ hơn.

Khi khủng hoảng thanh khoản được giải quyết thì nhóm ngân hàng sẽ có lợi thế, vì đây là nhóm ngành đầu chuỗi của các hoạt động thu nhập và đầu tư. Ngành ngân hàng là nhóm ngành được tôi đưa vào danh sách ưu tiên nhất. Tuy vậy, cần tìm ra các cổ phiếu có “câu chuyện” trong năm 2023, như đối tác chiến lược, tái cơ cấu thành công, room tín dụng, định giá P/B (giá cổ phiếu so với giá trị sổ sách)… Những câu chuyện đã thành “thường niên” như cải thiện NIM, lợi nhuận… không còn nhiều ý nghĩa trong việc đưa ra quyết định giải ngân”.

– Ông Huỳnh Minh Tuấn, nhà sáng lập và Tổng giám đốc Công ty Đầu tư FIDT

]]>
Chất lượng tài sản ngân hàng ra sao trong năm 2023 https://doanhnhandautu.com/chat-luong-tai-san-ngan-hang-ra-sao-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:14 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5200 Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.]]>
Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Thực tế, chất lượng tín dụng trong quý III và IV/2022 cho thấy, kết quả kinh doanh nhiều ngân hàng không khả quan, khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên, dù tỷ lệ dự phòng giảm.

Chẳng hạn, tại Saigonbank, một điểm tối trong bức tranh kinh doanh năm qua của Ngân hàng là tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 chiếm gần 398 tỷ đồng trong tổng dư nợ, tăng 22% so với đầu năm. Nợ dưới tiêu chuẩn có tốc độ tăng mạnh nhất. Do đó, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,97% đầu năm lên 2,12%.

Trong năm 2022, Saigonbank trích hơn 250 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó, Ngân hàng thu được hơn 237 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 54% so với năm trước. So với kế hoạch lãi trước thuế 190 tỷ đồng cho cả năm 2022 đã vượt 25% chỉ tiêu.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Với TPBank, chất lượng nợ vay đi lùi khi tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của nhà băng này tăng 17% so với đầu năm, chiếm 1.357 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, tăng mạnh nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 và phải trích 100% dự phòng rủi ro). Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng nhẹ từ 0.82% đầu năm lên 0,84%.

Năm qua, TPBank trích gần 1.844 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, giảm 37%, do đó Ngân hàng thu về hơn 7.828 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 30% so năm trước. Nhưng nếu so với kế hoạch 8.200 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế đề ra cho cả năm, TPBank chỉ mới thực hiện được 95% mục tiêu.

Việc kiểm soát nợ xấu trong năm 2022 cũng là một thử thách lớn trước thực trạng khó khăn chung của nền kinh tế và hoạt động của các doanh nghiệp, tuy nhiên ABBank đã trích lập dự phòng cho các khoản vay. Tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của ngân hàng gần 2.366 tỷ đồng, tăng 46% so với đầu năm qua. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ 2,34% đầu năm lên 2,88%.

Chi phí hoạt động năm qua của ABBank chỉ tăng 8%, lên gần 2.043 tỷ đồng. Trong năm qua, ABBank trích ra gần 777 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó Ngân hàng chỉ thu về hơn 1.702 tỷ đồng lãi trước thuế, giảm 13% so với năm trước. So với kế hoạch 3,079 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, ABBank chỉ thực hiện được 55% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của LienVietPostBank (LPB) tăng 20% so với đầu năm qua, chiếm 3.427 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh nhất. Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,37% đầu năm lên 1,46%. Nhưng dù trong năm LPB dành ra gần 3.174 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, gấp 2,4 lần so cùng kỳ năm trước, Ngân hàng vẫn thu được gần 5.690 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 56%. Như vậy, nếu so với kế hoạch 4.800 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, LPB đã vượt 19% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của VIB tăng 22% so với đầu năm, chiếm 5.687 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 2,32% đầu năm lên 2,45%. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 23%, đạt gần 11.861 tỷ đồng. Trong năm qua, VIB dành ra gần 1.280 tỷ đồng để trích lập dự phòng rủi ro, giảm 22%. Kết quả, VIB thu được hơn 10.581 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 32%. Như vậy, VIB đã hoàn thành kế hoạch 10.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2022 đặt ra.

Ngoài ra, dù chưa chính thức công bố báo cáo tài chính nhưng hiện đã có một số ngân hàng thông báo kết quả kinh doanh năm 2022. Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2023, Vietcombank đã công bố kết quả kinh doanh năm 2022. Trong đó, về chất lượng tín dụng, ngân hàng cho biết tổng số dư nợ xấu là 7.662 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,67%. Với VietinBank, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng được kiểm soát ở mức 1,2%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu xấp xỉ 190% (tăng 10% so với năm 2021). Kết quả thu hồi nợ gốc lãi xử lý rủi ro tăng hơn 60% so với số thu năm 2021.

Còn tại BIDV, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1,96 triệu tỷ đồng, tăng 19% so với đầu năm, trong đó dư nợ tín dụng đạt 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 12.65% so với đầu năm, cao hơn mức thực hiện năm 2021 (11,8%). Tỷ lệ nợ xấu theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN được ngân hàng kiểm soát ở mức 0,9%.

Hay trước đó, tại thời điểm kết thúc 9 tháng đầu năm, báo cáo tài chính các ngân hàng đã cho thấy nợ xấu hâu hểt ngân hàng đều có xu hướng tăng mạnh. Có những nhà băng tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng vượt ngưỡng 3%. Xét về mức độ tăng trưởng, MB, ACB và Vietbank là những ngân hàng có số dư nợ xấu tăng nhanh với mức tăng 30-45% so với cùng kỳ, với số dư nợ xấu lần lượt là 4.415 tỷ đồng, 4.056 tỷ đồng và 2.456 tỷ đồng.

Tuy nhiên, Vietcombank, MB, BIDV, ACB, VietinBank, SHB, Techcombank, TPBank… là những ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, trong đó Vietcombank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên đến gần 500%.

NCB cũng là nhà băng có nợ xấu cao. Phía ngân hàng cho biết nguyên nhân nợ xấu tăng trong kỳ do ngân hàng thực hiện phân loại lại nợ xấu, nợ quá hạn theo đúng tình trạng khoản nợ theo quy định của NHNN, đặc biệt là sau khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng do dịch Covid-19 đã hết hạn vào ngày 30/6/2022.

Nhận định về nợ xấu ngân hàng năm 2022, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tức là nợ xấu của nền kinh tế, hiện nay có xu hướng tăng lên, công tác kiểm soát nợ xấu sẽ gặp khó khăn bởi dịch bệnh kéo dài, tác động có độ trễ nên sẽ ảnh hưởng lớn hơn hoạt động ngân hàng trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

NHNN cho rằng, những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể sẽ bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới, khi đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dự báo sẽ tiếp tục tăng. Thực tế, năm 2022, nợ xấu ngân hàng vẫn là thách thức khó khăn trong bối cảnh lạm phát và lãi suất tăng cao.

Giới phân tích cho rằng, trong những tháng cuối năm 2022, nợ xấu ngành ngân hàng có thể tăng thêm và tiếp tục phân hóa tùy thuộc vào tính chất tệp khách hàng cũng như các yếu tố vĩ mô như sự phục hồi kinh tế và kiểm soát lạm phát. Dự báo về nợ xấu nội bảng năm 2022, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia dự báo nợ xấu nội bảng có thể lên mức 2,3 – 2,5%. Đồng thời, nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024, quy định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan.

Chất lượng tài sản trong 2023 ra sao

Theo kết quả cuộc điều tra xu hướng tín dụng của các tổ chức tín dụng do NHNN thực hiện , dự báo 6 tháng tới và năm 2023, các tổ chức tín dụng quan ngại mặt bằng rủi ro tín dụng tổng thể tiếp tục tăng nhẹ ở hầu hết các lĩnh vực ngoại trừ một số lĩnh vực cho vay phát triển nông, lâm, thủy sản, cho vay đầu tư ứng dụng công nghệ cao, cho vay đầu tư công nghiệp hỗ trợ, cho vay công nghiệp chế biến chế tạo được kỳ vọng rủi ro giảm.

Hai lĩnh vực được dự báo vẫn tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao nhất là cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán.

Trong 6 tháng đầu năm 2023 và cả năm 2023, 61,6%- 64,6% tổ chức tín dụng dự kiến giữ nguyên tiêu chuẩn tín dụng, chỉ có 19,2%-20,2% tổ chức tín dụng dự kiến “thắt chặt nhẹ” tiêu chuẩn tín dụng tổng thể của đơn vị mình, tuy nhiên mức độ thắt chặt đã giảm so với 6 tháng cuối năm 2022 và cả năm 2022, đồng thời có 16,2-17,2% tổ chức tín dụng dự kiến “nới lỏng”.

Dự kiến “thắt chặt” chủ yếu diễn ra ở lĩnh vực “Cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản”, “Cho vay kinh doanh tài chính, ngân hàng và bảo hiểm”, khoản vay trung, dài hạn và khoản vay bằng ngoại tệ. Theo nhận định của các tổ chức tín dụng, nguyên nhân chủ yếu là do “Mức độ rủi ro của thị trường” tăng lên (“Rủi ro từ phía khách hàng”; “Rủi ro ngành nghề”) cùng với những thách thức về triển vọng kinh tế.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản được giới phân tích tài chính nhận định, không chỉ ảnh hưởng triển vọng tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu.

VDSC cho rằng, năm 2023, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục hành trình vượt bão trong chu kỳ bất động sản đi xuống cùng với triển vọng kém tích cực của xuất nhập khẩu, nhưng khả năng chống chịu của từng ngân hàng sẽ tùy thuộc vào chất lượng tài sản và mức độ thận trọng của ngân hàng trong những năm qua. Tuy nhiên, quy mô nợ xấu và chi phí tín dụng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng, dựa trên mức độ thận trọng của ngân hàng trong việc trích lập dự phòng và khả năng hồi phục tài chính của của khách hàng.

Trong khi đó, VNDirect nhận định, bên cạnh căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến việc các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về thanh khoản, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao, do USD và lãi suất tiền đồng tăng, ảnh hưởng lên khả năng trả nợ. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023.

Tuy nhiên, với các ngân hàng đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và không liên quan nhiều đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Vì thế, NHNN cho biết, tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…

Đáng chú ý, Phó thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Một trong những thách thức lớn nhất là lạm phát cao, các ngân hàng trung ương lớn trên giới như Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất chứ không chỉ dừng lại ở đó, do đó, áp lực tăng lãi suất rất cao. Với ngành ngân hàng trong nước, các ngân hàng thương mại sẵn sàng tiếp tục hy sinh lợi nhuận để giảm lãi suất, chia sẻ với doanh nghiệp, với nền kinh tế trong năm 2023.

Dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Trong đó, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.

Vì vậy, cá chuyên gia kinh tế – tài chính dự báo trong năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Tương tự, Công ty Chứng khoán SSI đánh giá, năm 2023 sẽ là năm chông gai đối với ngành ngân hàng. Bởi lẽ, khi nhìn ở góc độ trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, nhiều doanh nghiệp bất động sản bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn và tái cơ cấu cho hoạt động kinh doanh của mình.

Điều này có thể sẽ làm gia tăng rủi ro liên quan đến khả năng trả nợ của những công ty này với ngân hàng. Thêm vào đó, tổng dư nợ toàn bộ các khoản cho vay mua nhà tại các ngân hàng SSI phân tích ở mức khoảng 1,3 triệu tỷ đồng. Thế nhưng, thị trường bất động sản lại đang có xu hướng giảm giá và chưa thấy tín hiệu hồi phục.

SSI duy trì quan điểm rằng, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản trong thời gian tới. Trừ khi có các quy định đặc biệt về phân loại nợ, trích lập dự phòng cho các khoản vay,trái phiếu đáo hạn vào năm 2023 được thực hiện, nợ xấu và trích lập dự phòng sẽ là những áp lực tương đối lớn.

Ngân hàng gia tăng bộ đệm dự phòng rủi ro

Theo WiGroup, tỷ lệ nợ xấu đã tăng quý thứ 4 liên tiếp và đạt mức 1,6% toàn hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu chủ yếu đến các khoản nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) đã tăng mạnh hơn 30.000 tỷ đồng (tăng 70%) so với đầu năm 2022.

rủi ro

WiGroup cho rằng, diễn biến này dường như đã nằm trong kịch bản của các ngân hàng nhờ tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức rất cao trước đó (150% trong quý I/2022) giúp giảm đi áp lực trích lập dự phòng nếu nợ xấu tiếp tục gia tăng. Tính đến cuối quý III/2022, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã giảm xuống còn 141%.

Bức tranh nợ xấu năm 2022 của ngành ngân hàng chứng kiến sự gia tăng mạnh về số dư nợ xấu, trong đó có nợ nhóm 5. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản của ngân hàng đã bị ảnh hưởng bởi việc Thông tư 14 này hết hiệu lực.

Theo số liệu của Chứng khoán VNDirect, tỷ lệ nợ xấu trung bình của ngành tăng lên mức 1,44% vào cuối quý III/2022 từ 1,34% vào cuối quý II và 1,28% cuối năm 2021. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) trung bình của ngành đã tăng lên mức 168,7% vào cuối quý III/2022, thấp hơn so với mức 172,6% vào cuối quý II nhưng vẫn cao hơn mức 159,6% vào cuối năm 2021.

Trong khi đó, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, tỷ lệ nợ xấu chỉ nhích nhẹ sau khi nợ tái cơ cấu do Covid-19 bị chuyển nhóm nợ từ quý III/2022, sau khi thông tư 03/2021 cho phép giữ nguyên nhóm nợ. Ngoài ra, hầu hết ngân hàng đều đã trích lập đủ dự phòng cho các khoản nợ cơ cấu và nợ kéo theo, các ngân hàng còn lại chưa trích lập đủ sẽ phải đối mặt với khả năng chi phí tín dụng gia tăng đối với nợ cơ cấu trong những quý tới.

Theo kết quả kinh doanh năm 2022 mới công bố, tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu của Vietcombank đạt 465%, cao nhất toàn hệ thống ngân hàng. VietinBank cũng đã công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 245%, mức cao nhất trong các năm gần đây. Các số liệu công bố trước đó của một số ngân hàng khác như BIDV, Techcombank, ACB, MB… cũng đều cho thấy tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%.

Trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng sẽ có sự gia tăng nợ xấu và chi phí tín dụng trong vài quý tiếp theo do rủi ro từ vĩ mô thế giới ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng ngành xuất nhập khẩu cũng như triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chu kỳ đi xuống của ngành bất động sản và những rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng chiếm xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản không chỉ ảnh hưởng triển tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu. Tổng số trái phiếu doanh nghiệp sau khi loại trừ nhóm trái phiếu do ngân hàng phát hành hiện đang lưu hành là khoảng 945 nghìn tỷ đồng, trong đó 27% sẽ đáo hạn vào năm 2023 và 2024, và 12% sẽ đáo hạn vào năm 2025. Gần một phần ba số trái phiếu này nằm trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.

Tuy nhiên, con số này vẫn không bao gồm những trái phiếu đã được phân phối cho các nhà đầu tư cá nhân, nhưng có bảo lãnh thanh toán cũng như những trái phiếu hiện không có trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng vẫn sẽ chịu rủi ro tín dụng liên quan đối với những trái phiếu theo hợp đồng repo.

Đáng chú ý, nhiều chủ đầu tư bất động sản đang phải đối mặt với các khó khăn với lượng hàng tồn kho tăng lên, doanh số bán hàng giảm và chịu áp lực đáng kể về dòng tiền ngắn hạn khi một số trái phiếu sắp đến ngày đáo hạn, đặc biệt là trong giai đoạn từ tháng 12/2022 đến tháng 3/2023, kéo nợ xấu tăng. 

Do đó, các chuyên gia tài chính cho rằng, các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và ít phơi nhiễm với trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Trong đó, nhóm ngân hàng quốc doanh (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank), và một số ngân hàng tư nhân chính sách cho vay và trích lập dự phòng rủi ro thận trọng sẽ lđáp ứng tốt với các tiêu chí trên.

]]>
Ra Tết gửi tiền ngân hàng nào lãi suất cao nhất? https://doanhnhandautu.com/ra-tet-gui-tien-ngan-hang-nao-lai-suat-cao-nhat/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:08 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5268 Mặt bằng lãi suất tiền gửi sau Tết có điều chỉnh nhẹ ở kỳ hạn trên 1 năm, song các nhà băng vẫn duy trì mức cao, tối đa 9,5%/năm. Song áp lực lãi vay khó sớm giảm.]]>
Mặt bằng lãi suất tiền gửi sau Tết có điều chỉnh nhẹ ở kỳ hạn trên 1 năm, song các nhà băng vẫn duy trì mức cao, tối đa 9,5%/năm. Song áp lực lãi vay khó sớm giảm.

Gửi ngân hàng nào được lãi suất cao?

Lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại ổn định ở mức cao. Những kỳ hạn gửi dưới 6 tháng ở mức kịch trần 6%/năm, trên 6 tháng có sự cạnh tranh khác biệt giữa từng nhà băng. DongABank nhận lãi cuối kỳ ở kỳ hạn 6 tháng có mức lãi suất 9,35%/năm, 12 tháng lãi suất 9,5%/năm.

Saigonbank kỳ hạn 6 tháng có mức lãi suất 9,2%/năm, 12 tháng 9,4%/năm, còn 13 – 18 tháng là 9,5%/năm, từ 24 tháng trở đi chỉ còn 9,3%/năm; Techcombank huy động tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng 9%/năm, từ 12 tháng trở đi là 9,2%/năm… Các ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank có mức lãi suất huy động cao nhất là 7,4%/năm từ 12 tháng trở lên.

Gửi ngân hàng nào được lãi suất cao?

Đối với kỳ hạn tiền gửi dài ngày, một số ngân hàng có điều chỉnh giảm nhẹ từ 0,1-1%/năm sau tết Nguyên Đán như tại Techcombank, mức lãi suất huy động cao nhất ở ngân hàng này là 9,2%/năm. Trong khi trước tết, con số này là 9,5%/năm.

Sacombank hiện lãi suất cao nhất chỉ còn 9,2%/năm áp dụng cho tiền gửi online, kỳ hạn từ 15 đến 36 tháng. Tại PVCombank cũng giảm từ 9,9%/năm xuống 9,5%/năm dành cho khách hàng gửi tiền qua kênh online theo hình thức tiền gửi bậc thang, kỳ hạn 36 tháng… Tuy có giảm, song nhìn chung mặt bằng lãi suất vẫn ở mức tối đa 9,5%/năm theo như cam kết của các thành viên với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

Thậm chí, nếu cộng các chương trình ưu đãi, khuyến mãi mà ngân hàng “tung” ra để thu hút khách hàng tiền gửi đầu năm, thì lãi suất còn cao hơn. Đó là chưa kể, thị trường vẫn tồn tại tình trạng một số nhà băng còn thỏa thuận “ngầm” về lãi suất tiết kiệm với khách hàng có số lượng tiền gửi lớn khi cộng thêm biên độ 0,5-1,5%/năm.

TS. Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính, ngân hàng đưa ra nhận định, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có yêu cầu khống chế lãi suất huy động dưới 9,5%/năm, song đây vẫn là một con số cao so với mọi năm. Dòng tiền vẫn đang và sẽ tìm đến tiết kiệm.

Tính đến cuối tháng 12/2022 so với đầu năm, tổng tiền gửi toàn hệ thống tăng 6%. Nhưng dữ liệu tiền gửi dân cư do Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy, tiền gửi tăng thêm 84.597 tỷ đồng chỉ trong tháng 11 năm 2022. Đây là tháng có tốc độ tăng khá nhanh khi mặt bằng lãi suất huy động tiết kiệm trên thị trường lên cao.

Lượng tiền gửi của khu vực dân cư trong tháng 11/2022 tăng 8,38%, đạt hơn 5,744 triệu tỷ đồng. Chỉ trong tháng 11, lượng tiền gửi của người dân tăng thêm 84.597 tỷ đồng, nâng mức tăng so với cuối năm 2021 lên 444.114 tỷ đồng. Đây là tháng có mức tiền gửi dân cư tăng nhanh trong năm 2022.

Người dân có xu hướng gửi tiết kiệm vào những tháng cuối năm 2022 khi lãi suất huy động của các ngân hàng gia tăng mạnh mẽ. Đối với những kỳ hạn dưới 6 tháng, lãi suất tăng lên mức kịch trần 6%/năm, từ 6 tháng trở lên nhiều nhà băng tăng 10 – 12%/năm vào tháng 11 đến giữa tháng 12. Đến giữa tháng 12/2022, các ngân hàng đồng thuận lãi suất huy động tiết kiệm ở mức tối đa 9,5%/năm nên cuộc đua huy động vốn bằng lãi suất của các nhà băng tạm lắng dịu.

Tốc độ tăng tiền gửi của khu vực dân cư trong năm 2022 nhanh hơn nhiều so tiền gửi các tổ chức kinh tế. Vào cuối năm 2021, tốc độ tăng tiền gửi tổ chức kinh tế lên đến 15,73%, đạt 5,645 triệu tỷ đồng, còn tiền gửi dân cư chỉ tăng 3,08%, đạt 5,3 triệu tỷ đồng.

Thế nhưng đến nay, chiều hướng đã ngược lại, các tổ chức kinh tế gửi tiền chỉ tăng có 2,9% so với cuối năm 2021, đạt 5,808 triệu tỷ đồng, tương đương tăng 163.000 tỷ đồng, trong khi lượng tiền gửi dân cư tăng gấp đôi. Lượng tiền gửi của dân cư hiện tăng gần bằng so với tổ chức kinh tế. Bởi lãi suất tiết kiệm tăng, trong khi doanh nghiệp ngại vay vốn ngân hàng do áp lực lãi vay đi lên. 

Cụ thể, mặt bằng lãi suất huy động của ngân hàng phổ biến từ 9% đến 10%/năm với kỳ hạn trên 12 tháng. Trong đó, một số ngân hàng huy động tới 11,5%/năm trong quý cuối năm 2022. Theo các chuyên gia, trong ngắn và trung hạn, lãi suất huy động vẫn còn dư địa tăng nên số dư tiền gửi tại các ngân hàng tiếp tục tăng trưởng tốt.

Quá trình tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp diễn ít nhất cho tới tháng 6 năm 2023. Sau sự việc liên quan đến SCB, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định, ưu tiên cao nhất của là đảm bảo thanh khoản, giữ ổn định an toàn hệ thống. Dù vậy, trong môi trường không thuận lợi, lãi suất còn dư địa tăng, ngân hàng vừa và nhỏ sẽ buộc phải giữ mức lãi suất cao để đảm bảo nhu cầu huy động.

Trên cơ sở đó, các dự báo được đưa ra, mặt bằng lãi suất huy động đạt đỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 với mức tăng 1 – 1,5 điểm phần trăm và giảm dần từ quý III/2023.

Đánh giá về thực tế này, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc Fiin Ratings cho rằng, ở góc độ người dân lựa chọn kênh đầu tư so với tiết kiệm, nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì cao người có tiền cứ tiếp tục gửi tiết kiệm ngân hàng với rủi ro thấp và mức hấp dẫn không kém đưa tiền vào kênh đầu tư.

Vì vậy, với nhiều người nếu có tiền nhàn rỗi thì kênh tiết kiệm vẫn an toàn nhất. Hơn nữa, lãi suất vẫn đang duy trì ở mức cao nên là khá ổn. Nhưng nếu xét trong dài hạn cho cả năm 2023 thì có thể các kênh đầu tư khác sẽ hồi phục từ mức thấp thì khi đó tỷ suất sinh lời có thể cao hơn tiền lãi tiết kiệm.

Áp lực cho người cần vốn

Chứng khoán SSI nhận định, lãi suất huy động tại một số ngân hàng tăng mạnh từ tháng 10/2022 lên khoảng 9 – 10%/năm, kéo theo lãi suất cho vay cũng tăng mạnh lên khoảng 14 – 15% đối với cho vay cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lãi suất cho vay cao đã phần nào tác động tiêu cực đến nhu cầu vay mới trong giai đoạn cuối năm qua.

SSI cũng đưa ra dự báo mặt bằng lãi suất có thể sẽ không tăng mạnh trong năm 2023. Với điều kiện có sự hỗ trợ kịp thời từ Ngân hàng Nhà nước về thanh khoản, cùng với sự điều hành linh hoạt liên quan đến các tỷ lệ an toàn hoạt động và Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi về trái phiếu, tình hình thanh khoản có thể cải thiện so với 6 tháng cuối năm 2022.

Áp lực cho người cần vốn

Tuy nhiên, SSI cho rằng chỉ khi các đợt tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) kết thúc thì lãi suất tiền đồng trong nước mới có thể hạ nhiệt, có thể là trong nửa cuối năm 2023. Khoảng cách giữa tăng trưởng tín dụng và huy động có khả năng thu hẹp so với năm 2022, lần lượt ở mức 12 – 14% và 10 – 12%.

Thế nhưng, qua khảo sát của phóng viên tại 35 ngân hàng trong ngày làm việc đầu tiên của năm Quý Mão 2023, có 30 nhà băng niêm yết mức lãi suất cao nhất trên 9%/năm. Trong đó, chỉ còn 5 ngân hàng ghi nhận con số này trên 9,5%.

Giới phân tích tài chính cho rằng, nếu lãi suất huy động tiếp tục duy trì như hiện nay (9-10%) thì các doanh nghiệp khó có thể huy động vốn cho đầu tư phát triển. Bởi cách đơn giản nhất là người có tiền cứ tiếp tục gửi tiết kiệm ngân hàng với rủi ro thấp và mức hấp dẫn không kém đưa tiền vào kênh đầu tư.

Vả lại, giới phân tích cũng đưa ra nhận định, một khi chi phí đầu vào còn tăng thì hoạt động cho vay gặp khó, do doanh nghiệp không thể sử dụng vốn vay khi lãi suất tăng cao. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài lĩnh vực ưu tiên hiện dao động 10-13%/năm. Thậm chí cao hơn mức này, nhưng cũng không dễ tiếp cận vốn. Còn với khách hàng cá nhân, nhất là với cho vay mua nhà lãi vay lên 14-16%/năm.

Đó cũng là lý do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kêu gọi các ngân hàng hội viên thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tại các kỳ hạn tối đa 9,5%/năm (kể cả các khoản khuyến mại cộng lãi suất) ổn định mặt bằng lãi suất huy động, đảm bảo an toàn thanh khoản hệ thống ngân hàng, đặc biệt trong những tháng cuối năm, trên cơ sở đó tiết giảm chi phí nhằm giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp.

Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước khuyến khích các tổ chức tín dụng ổn định mặt bằng lãi suất cho vay. Đây là một trong những chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 27/1/2023 đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện nhiệm vụ trọng tâm sau kỳ nghỉ Tết nguyên đán Quý Mão 2023…

Cụ thể, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động theo dõi sát tình hình, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả; phối hợp chặt chẽ, hài hoà với chính sách tài khoá và các chính sách khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Chú trọng bảo đảm thanh khoản, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng nguồn vốn tín dụng vào các động lực tăng trưởng, phát triển sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Rà soát, có biện pháp phù hợp tháo gỡ khó khăn về tín dụng bất động sản đối với cả doanh nghiệp bất động sản và người mua, thúc đẩy phát triển các dự án bất động sản hiệu quả, cơ cấu lại và phát triển thị trường bất động sản, xử lý nợ xấu, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân…; tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.

Trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN vừa được Ngân hàng Nhà nước ban hành đầu năm 2023 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành năm nay, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục yêu cầu các ngân hàng tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp; cắt giảm chi phí hoạt động, khuyến khích trả cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, nâng cao năng lực tài chính và khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế, ổn định mặt bằng lãi suất thị trường.

Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú cũng cho biết, việc điều hành lãi suất và tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2023  trước hết là tính toán từ những con số, thông số đó để xác định một chính sách ổn định, tiếp tục duy trì sự ổn định của lãi suất cũng như tỷ giá hiện nay.

Nếu như trong thời gian tới điều kiện có những thuận lợi cho ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, thì Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục chỉ đạo, vận động các ngân hàng thương mại tiếp tục cắt giảm chi phí để giảm bớt lãi suất so với mức giảm lãi suất đã cam kết đồng thuận vào cuối năm 2022, thêm một lần nữa, tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân, cho nền kinh tế vay vốn với mức lãi suất thấp hơn.

]]>
BIDV ghi nhận lợi nhuận trước thuế xấp xỉ 1 tỷ USD trong 2022 https://doanhnhandautu.com/bidv-ghi-nhan-loi-nhuan-truoc-thue-xap-xi-1-ty-usd-trong-2022/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:54 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5434 Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV - Mã: BID) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý IV/2022 với lợi nhuận cả năm tăng hơn 23.000 tỷ đồng, dự phòng giảm. ]]>
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV – Mã: BID) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý IV/2022 với lợi nhuận cả năm tăng hơn 23.000 tỷ đồng, dự phòng giảm.

Theo đó, tăng trưởng lợi nhuận của BIDV chủ yếu nhờ vào tăng trưởng thu nhập lãi thuần, thu nhập từ hoạt động từ kinh doanh ngoại hối và cắt giảm gần 5.500 tỷ đồng chi phí dự phòng rủi ro trong năm qua.

BIDV ghi nhận lợi nhuận trước thuế xấp xỉ 1 tỷ USD trong 2022

Cụ thể, trong quý IV/2022, lợi nhuận trước thuế của BIDV đạt 5.381 tỷ đồng, tăng hơn 91% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận sau thuế tăng 88,7% đạt gần 4.262 tỷ đồng.

Theo giải trình của ngân hàng, tăng trưởng lợi nhuận quý IV/2022 đến từ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng, hoạt động từ kinh doanh ngoại hối và cắt giảm chi phí dự phòng rủi ro do chất lượng tín dụng được kiểm soát tốt.

Lũy kế cả năm 2022, BIDV lãi trước thuế 23.057 tỷ đồng, mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 70,2% so với năm trước. Lãi sau thuế đạt hơn 18.453 tỷ đồng.

Tuy lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của BIDV chỉ tăng hơn 9% so với năm trước nhưng nhờ cắt giảm 18,6% (tương đương gần 5.500 tỷ đồng) chi phí dự phòng rủi ro nên lợi nhuận trước thuế mới có được tăng trưởng cao.

Các chỉ tiêu sinh lời, chỉ tiêu an toàn hoạt động của hệ thống được đảm bảo: ROA đạt 0,95%; ROE đạt 20,2%, hoàn thành vượt kế hoạch đề ra; Hệ số an toàn vốn (CAR) đạt 8,76%, đảm bảo tuân thủ quy định tại Thông tư 41/2016/ TT-NHNN.

Bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước tại BIDV; nộp Ngân sách Nhà nước hơn 6.600 tỷ đồng, đảm bảo quyền lợi cổ đông và thu nhập cho người lao động.

Giá trị cổ phiếu BIDV tăng gần 4% so với đầu năm trong bối cảnh VN-Index sụt giảm gần 34%; vốn hóa của BIDV đạt hơn 8,1 tỷ USD, đứng thứ 3 toàn thị trường.

Hoạt động của Khối các công ty con, công ty liên doanh, liên kết năm 2021 ghi nhận kết quả tích cực. Lợi nhuận trước thuế của Khối trong năm 2022 đạt gần 1.600 tỷ đồng.

Đến cuối năm 2022, tổng tài sản của ngân hàng tăng mạnh hơn 20% vượt mốc 2 triệu tỷ đồng và là ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất hệ thống tính đến thời điểm hiện tại. Trong năm 2022, cho vay khách hàng và tiền gửi khách hàng của BIDV tăng trưởng khiêm tốn lần lượt 12,4% và 6,8% đạt hơn 1,52 triệu tỷ đồng và 1,47 triệu tỷ đồng. 

Số dư nợ xấu của ngân hàng tăng hơn 30% lên 17.622 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu nhích nhẹ từ 1% cuối năm 2021 lên 1,16%. Ngân hàng cũng đã tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro cho vay khách hàng lên 38.198 tỷ đồng, tăng 31,2% so với năm trước.

Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu BID của BIDV kết thúc phiên giao dịch ngày 30/1 đứng ở mức 44.500 đồng/cổ phiếu, tăng so với mức trên 41.000 đồng/cổ phiếu đầu tháng này. 

]]>
Big 4 ngân hàng sắp có thêm khoảng 150.000 tỷ đồng thanh khoản để cho vay thêm? https://doanhnhandautu.com/big-4-ngan-hang-sap-co-them-khoang-150-000-ty-dong-thanh-khoan-de-cho-vay-them/ Sat, 11 Feb 2023 10:22:49 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5855 NHNN không nới tỷ lệ LDR từ 85% lên 90% như kỳ vọng của các ngân hàng, song bổ sung quy định giúp các ngân hàng thương mại thêm dư địa thanh khoản, hỗ trợ lãi suất, tín dụng.]]>
NHNN không nới tỷ lệ LDR từ 85% lên 90% như kỳ vọng của các ngân hàng, song bổ sung quy định giúp các ngân hàng thương mại thêm dư địa thanh khoản, hỗ trợ lãi suất, tín dụng.
Big 4 ngân hàng sắp có thêm khoảng 150.000 tỷ đồng thanh khoản để cho vay thêm?

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết đã ban hành Thông tư 26/2022/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư có hiệu lực từ 31/12/2022.

Trái với kỳ vọng trước đó, Thông tư mới không nới trần tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR) từ mức 85% hiện nay lên 90%. Tuy nhiên, Thông tư cho phép các ngân hàng được tính một phần tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước vào cấu phần huy động.

Tỷ lệ này được khấu trừ theo lộ trình giảm dần, cụ thể là từ ngày Thông tư có hiệu lực thi hành đến hết năm nay, trừ 50% số dư tiền gửi Kho bạc Nhà nước. Từ ngày 1/1/2024 đến 31/12/2024, trừ 60% số dư tiền gửi Kho bạc Nhà nước. Từ ngày 1/1/2025 đến ngày 31/12/2025, trừ 80% số dư tiền gửi Kho bạc Nhà nước. Từ ngày 1/1/2026, trừ 100% số dư tiền gửi Kho bạc Nhà nước.

Quy định trên sẽ giúp các ngân hang thương mại có vốn nhà nước (nhóm big 4), bao gồm: Vietcombank, Agribank, BIDV, VietinBank có thêm thanh khoản để cho vay.

Trao đổi với báo chí cuối năm 2022, ông Lưu Hoàng, Cục trưởng Cục Quản lý ngân quỹ, Kho bạc Nhà nước cho biết, hiện tồn quỹ của ngân sách trung ương, địa phương… đang ở mức trên 900.000 tỷ đồng. Trong đó, gần 700.000 tỷ đồng đang được gửi không kỳ hạn tại Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại Thông tư 58 Bộ Tài chính với lãi suất 0,8%/năm. Gần 270.000 tỷ đồng còn lại gửi tại 4 ngân hàng thương mại do nhà nước nắm cổ phần chi phối là VietinBank, Vietcombank, Agribank và BIDV (nhóm “Big4”) kỳ hạn 1-3 tháng, lãi suất trung bình 6%/năm.

Báo cáo tài chính quý IV/2022 của các ngân hàng thương mại cũng cho thấy, số dư tiền gửi mà Kho bạc Nhà nước gửi tại các ngân hàng big 4 ước khoảng 300.000 tỷ đồng.

Với quy định của Thông tư 26, ngay năm 2022, các ngân hàng thương mại sẽ có thêm khoảng 135.000 – 150.000 tỷ đồng thanh khoản, có thể bổ sung vào cho vay. Đây cũng là yếu tố hỗ trợ giúp các ngân hàng này ổn định lãi suất cho vay năm nay.

]]>