# ACB – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com Trang thông tin doanh nhân & đầu tư Sun, 08 Jun 2025 23:51:20 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhandautu/2025/08/doanhnhandautu.svg # ACB – Doanhnhandautu.com https://doanhnhandautu.com 32 32 Nghị quyết 68 – Động lực mới cho doanh nghiệp tư nhân https://doanhnhandautu.com/nghi-quyet-68-dong-luc-moi-cho-doanh-nghiep-tu-nhan/ Sun, 08 Jun 2025 23:51:20 +0000 https://doanhnhandautu.com/?p=19826

Nghị quyết 68: Cú hích mạnh mẽ cho kinh tế tư nhân

Nghị quyết 68 trao niềm tin cho doanh nghiệp tư nhân

Nghị quyết 68 là tín hiệu chính sách mạnh mẽ cho kinh tế tư nhân

Ông Từ Tiến Phát, Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), cho rằng Nghị quyết 68 là bước ngoặt chiến lược khi xác định khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây không chỉ là vinh dự mà còn là trách nhiệm lớn cho cả hệ thống chính trị và tổ chức kinh tế.

ACB xác định vai trò của mình không chỉ là ngân hàng thương mại mà còn là đối tác chiến lược của doanh nghiệp. Nghị quyết 68 thúc đẩy hệ thống tài chính – ngân hàng thay đổi tư duy và phương thức phục vụ để đồng hành sâu sát hơn với doanh nghiệp.

Ông Từ Tiến Phát trao đổi tại Tọa đàm

Ông Từ Tiến Phát nhấn mạnh vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ doanh nghiệp

Hoàn thiện cơ chế tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nghị quyết 68 nhấn mạnh việc hoàn thiện cơ chế tín dụng, ưu tiên tín dụng thương mại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Để chính sách này hiệu quả, cần có hành lang pháp lý rõ ràng và cơ chế phân bổ hạn mức tín dụng minh bạch.

Phát triển mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ phát triển DNVVN là cấp thiết để chia sẻ rủi ro với tổ chức tín dụng, khuyến khích ngân hàng cấp vốn cho doanh nghiệp tiềm năng.

ACB – Đối tác tin cậy của hơn 1 triệu doanh nghiệp

ACB hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ

ACB dành khoảng 5.000 tỷ đồng tài trợ vốn cho DNVVN

ACB đang phục vụ gần 300.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, hơn 800.000 hộ kinh doanh. Ngân hàng đã triển khai nhiều chính sách tín dụng ưu đãi, như gói “Khơi thông vốn, đón cơ hội” với lãi suất từ 5,5%/năm.

ACB không chỉ hỗ trợ tài chính mà còn chú trọng phát triển hạ tầng thanh toán và công nghệ số để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp.

Với sự hỗ trợ từ Nghị quyết 68 và cam kết từ các ngân hàng thương mại như ACB, kinh tế tư nhân sẽ có động lực mới để phát triển mạnh mẽ, góp phần vào sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.

]]>
ACB và Đại học Quốc gia TPHCM hợp tác thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo https://doanhnhandautu.com/acb-va-dai-hoc-quoc-gia-tphcm-hop-tac-thuc-day-he-sinh-thai-doi-moi-sang-tao/ Sun, 08 Jun 2025 23:50:51 +0000 https://doanhnhandautu.com/?p=19810

Lễ ký kết hợp tác giữa ACB và Đại học Quốc gia TPHCM

Đại diện Đại học Quốc gia TPHCM và ACB ký kết hợp tác trong khuôn khổ sự kiện “Nghị quyết số 57-NQ/TW: Từ tầm nhìn đến thực thi – Mô hình hợp tác Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp”


Sự hợp tác giữa ACB và Đại học Quốc gia TPHCM đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc hiện thực hóa Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cũng như Nghị quyết 68 về phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Hợp tác vì một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bền vững là mục tiêu chính của thỏa thuận này. Trong bối cảnh chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo đang trở thành ưu tiên hàng đầu của Việt Nam, việc kết nối giữa thể chế, tri thức và năng lực triển khai trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Mô hình hợp tác “Ba nhà” – Nhà nước, Nhà trường và Doanh nghiệp – được xem là nền tảng để xây dựng một hệ sinh thái đổi mới hiệu quả, thực chất và bền vững.
Theo đó, ba bên sẽ vận hành theo nguyên tắc “cùng thiết kế – cùng triển khai – cùng chia sẻ giá trị”. Các bên sẽ cùng nhau tham gia xây dựng mục tiêu nghiên cứu, đồng thời chia sẻ lợi ích tài chính từ kết quả ứng dụng. Khi “tam giác chiến lược” vận hành hiệu quả, quốc gia sẽ có cơ hội “đi tắt, đón đầu”, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và vươn lên mạnh mẽ.
Ông Trần Hùng Huy, Chủ tịch HĐQT ACB, nhấn mạnh rằng hợp tác với đại học không chỉ là chiến lược phát triển nguồn lực của ACB, mà còn là cách ngân hàng góp phần thúc đẩy một tương lai bền vững cho nền kinh tế và xã hội. Ngân hàng sẽ không chỉ ‘đặt hàng’ nguồn nhân lực mà còn ‘đồng thiết kế’ giải pháp với nhà trường, không chỉ tiếp nhận tri thức mà còn đóng góp kinh nghiệm từ thực tiễn doanh nghiệp.
ACB hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển bền vững

ACB triển khai gói tín dụng 40.000 tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp cùng các giải pháp trong chuyển đổi số, phát triển bền vững và mở rộng thị phần


ACB tập trung vào đầu tư cho con người, từ bên trong tổ chức đến cộng đồng. Việc ký kết không chỉ là một cột mốc hợp tác giữa ACB và Đại học Quốc gia TPHCM mà còn thể hiện rõ vai trò tiên phong của doanh nghiệp trong quá trình kết nối chiến lược quốc gia với hành động thực tiễn. ACB kỳ vọng từ nền tảng này sẽ hình thành một hệ sinh thái đổi mới sâu rộng – nơi Nhà nước hoạch định chiến lược, Nhà trường dẫn dắt tri thức và Doanh nghiệp là động lực triển khai.
Song song với hợp tác học thuật, ACB cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào phát triển con người. Các chương trình như The Next Banker hay gói tài chính hỗ trợ sinh viên khó khăn là minh chứng cho cam kết lâu dài của ACB trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực – điều kiện đủ cho một nền kinh tế phát triển bền vững.
ACB và Đại học Quốc gia TPHCM sẽ cùng triển khai nhiều chương trình hành động cụ thể xoay quanh ba định hướng chính. Thứ nhất, thúc đẩy tiếp cận tài chính cho giáo dục và khởi nghiệp. Thứ hai, tăng tốc chuyển đổi số trong tài chính. Thứ ba, ươm tạo sáng kiến và nuôi dưỡng tài năng trẻ thông qua các chương trình học qua trải nghiệm. ]]>
Sắc đỏ áp đảo, cổ phiếu ngân hàng “gánh” thị trường https://doanhnhandautu.com/sac-do-ap-dao-co-phieu-ngan-hang-ganh-thi-truong/ Sat, 11 Feb 2023 10:28:36 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=4108 VN-Index kết phiên 16/1 ở mức 1.066,68 điểm. Số lượng các mã giảm chiếm đa số dù chỉ số chung tăng khá. ]]>
VN-Index kết phiên 16/1 ở mức 1.066,68 điểm. Số lượng các mã giảm chiếm đa số dù chỉ số chung tăng khá.
VN-Index xanh vỏ đỏ lòng, cổ phiếu ngân hàng
VN-Index xanh vỏ đỏ lòng, cổ phiếu ngân hàng “gánh” thị trường.

Dòng tiền giao dịch dè dặt

Tiếp tục giao dịch ở mức thanh khoản thấp, giá trị giao dịch trong phiên 16/1 trên cả ba sàn chỉ ở mức 10.446 tỷ đồng. Trong đó, giao dịch sàn HoSE là 9.372 tỷ đồng, giảm 24,4% so với phiên liền trước. Trong một tiếng đầu tiên kể từ khi mở cửa, giao dịch chỉ đạt xấp xỉ 2.000 tỷ đồng. Cổ phiếu được giao dịch nhiều nhất là HPG với 22,3 triệu đơn vị được sang tay tương đương giá trị giao dịch ở mức 452 tỷ đồng.

Khối ngoại giao dịch vẫn khá tích cực. Trên sàn HoSE, nhóm nhà đầu tư này mua vào 1.282 tỷ đồng và bán ra 1.054 tỷ đồng, tương đương mua ròng 228 tỷ đồng. Khối ngoại mua ròng tổng cộng 220 tỷ đồng trên cả ba sàn. FUESSVFL là chứng khoán được mua nhiều nhất với giá trị mua ròng 124,1 tỷ đồng. Giá trị mua ròng với các chứng khoán khác khá ít ỏi. Ngoài chứng chỉ quỹ ETF SSIAM VNFIN LEAD, khối ngoại tập trung mua HPG (30 tỷ đồng), BID (30 tỷ đồng), FUEVFVND (20 tỷ đồng). Ở chiều ngược lại, TPB là cổ phiếu bị bán nhiều nhất (19,3 tỷ đồng).

Giao dịch dè dặt, các chỉ số cũng giao dịch trong biên độ nhỏ. VN-Index tăng 6,51 điểm (+0,61%) lên   1.066,68 điểm. Chỉ số sàn UPCoM cũng nhích tăng nhẹ 0,18%. Riêng HNX-Index giảm 0,18% xuống gần 211 điểm.

“Trụ đỡ” cổ phiếu ngân hàng

Số lượng các mã giảm giá áp đảo. Ba sàn có 373 mã giảm và 24 mã giảm sàn. Trong khi, chỉ có 297 mã tăng và 29 mã tăng trần.

Tuy nhiên, các mã tăng tập trung chính ở dòng ngân hàng. Bốn cổ phiếu tác động tích cực nhất đến VN-Index lần lượt là BID, VCB, CTG và ACB. Đây cũng là nguyên nhân chính kéo chỉ số chung hồi phục ở cuối phiên.

BID tăng kịch biên độ và bất ngờ vươn lên vị trí thứ hai trong bảng xếp hạng vốn hóa thị trường khi nâng quy mô vốn hóa lên 226.116 tỷ đồng. Vietcombank vẫn giữ vững vị trí quán quân (413.149 tỷ đồng). Dòng ngân hàng cũng là nhóm tăng mạnh nhất trong phiên hôm nay. TPB là cổ phiếu hiếm hoi trong nhóm này đóng cửa trong sắc đỏ, một phần do tác động của lực bán từ khối ngoại.

Ngoài nhóm ngân hàng, cổ phiếu thép cũng tăng đáng chú ý. HSG kết phiên tăng 4,6%, NKG tăng 3,2%, HPG tăng 1,5%. Dòng cao su tự nhiên giao dịch khá tích cực, đóng cửa phần lớn trong sắc xanh. Riêng GVR tăng 4,5%, DPR tăng 3,8%…

Đánh giá theo góc nhìn kỹ thuât, Chứng khoán VCBS cho rằng lực cầu về cuối phiên đã giúp cho VN Index đóng cửa tạo nến xanh tăng điểm. Hầu hết các chỉ báo đều đi ngang cho tín hiệu trung lập. VCBS đánh giá VN Index khả năng cao sẽ tiếp tục đi ngang và chưa thể chuyện đổi trạng thái trước kỳ nghỉ lễ. Công ty chứng khoán này khuyến nghị nhà đầu tư chỉ duy trì tỉ trọng cổ phiếu ở mức độ vừa phải, hạn chế mua mới cổ phiếu trong những phiên cận kề kỳ nghỉ Tết Âm lịch để chờ đợi xu hướng mới cũng như quản trị rủi ro trong bối cảnh thị trường vẫn đang vận động trong biên độ hẹp và chưa có thay đổi lớn.

]]>
Chất lượng tài sản ngân hàng ra sao trong năm 2023 https://doanhnhandautu.com/chat-luong-tai-san-ngan-hang-ra-sao-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 10:26:14 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5200 Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.]]>
Ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản thời gian tới, với điểm gợi mở từ khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản hiện nay.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Thực tế, chất lượng tín dụng trong quý III và IV/2022 cho thấy, kết quả kinh doanh nhiều ngân hàng không khả quan, khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên, dù tỷ lệ dự phòng giảm.

Chẳng hạn, tại Saigonbank, một điểm tối trong bức tranh kinh doanh năm qua của Ngân hàng là tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 chiếm gần 398 tỷ đồng trong tổng dư nợ, tăng 22% so với đầu năm. Nợ dưới tiêu chuẩn có tốc độ tăng mạnh nhất. Do đó, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,97% đầu năm lên 2,12%.

Trong năm 2022, Saigonbank trích hơn 250 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó, Ngân hàng thu được hơn 237 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 54% so với năm trước. So với kế hoạch lãi trước thuế 190 tỷ đồng cho cả năm 2022 đã vượt 25% chỉ tiêu.

Xu hướng tăng trong hai quý cuối năm 2022

Với TPBank, chất lượng nợ vay đi lùi khi tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của nhà băng này tăng 17% so với đầu năm, chiếm 1.357 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, tăng mạnh nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 và phải trích 100% dự phòng rủi ro). Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng nhẹ từ 0.82% đầu năm lên 0,84%.

Năm qua, TPBank trích gần 1.844 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, giảm 37%, do đó Ngân hàng thu về hơn 7.828 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 30% so năm trước. Nhưng nếu so với kế hoạch 8.200 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế đề ra cho cả năm, TPBank chỉ mới thực hiện được 95% mục tiêu.

Việc kiểm soát nợ xấu trong năm 2022 cũng là một thử thách lớn trước thực trạng khó khăn chung của nền kinh tế và hoạt động của các doanh nghiệp, tuy nhiên ABBank đã trích lập dự phòng cho các khoản vay. Tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của ngân hàng gần 2.366 tỷ đồng, tăng 46% so với đầu năm qua. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ 2,34% đầu năm lên 2,88%.

Chi phí hoạt động năm qua của ABBank chỉ tăng 8%, lên gần 2.043 tỷ đồng. Trong năm qua, ABBank trích ra gần 777 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, do đó Ngân hàng chỉ thu về hơn 1.702 tỷ đồng lãi trước thuế, giảm 13% so với năm trước. So với kế hoạch 3,079 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, ABBank chỉ thực hiện được 55% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 của LienVietPostBank (LPB) tăng 20% so với đầu năm qua, chiếm 3.427 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh nhất. Kết quả, đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,37% đầu năm lên 1,46%. Nhưng dù trong năm LPB dành ra gần 3.174 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, gấp 2,4 lần so cùng kỳ năm trước, Ngân hàng vẫn thu được gần 5.690 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 56%. Như vậy, nếu so với kế hoạch 4.800 tỷ đồng lãi trước thuế đặt ra cho cả năm 2022, LPB đã vượt 19% mục tiêu.

Về chất lượng nợ vay, tổng nợ xấu tính đến cuối năm 2022 của VIB tăng 22% so với đầu năm, chiếm 5.687 tỷ đồng trong tổng dư nợ. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 2,32% đầu năm lên 2,45%. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 23%, đạt gần 11.861 tỷ đồng. Trong năm qua, VIB dành ra gần 1.280 tỷ đồng để trích lập dự phòng rủi ro, giảm 22%. Kết quả, VIB thu được hơn 10.581 tỷ đồng lãi trước thuế, tăng 32%. Như vậy, VIB đã hoàn thành kế hoạch 10.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2022 đặt ra.

Ngoài ra, dù chưa chính thức công bố báo cáo tài chính nhưng hiện đã có một số ngân hàng thông báo kết quả kinh doanh năm 2022. Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2023, Vietcombank đã công bố kết quả kinh doanh năm 2022. Trong đó, về chất lượng tín dụng, ngân hàng cho biết tổng số dư nợ xấu là 7.662 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,67%. Với VietinBank, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng được kiểm soát ở mức 1,2%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu xấp xỉ 190% (tăng 10% so với năm 2021). Kết quả thu hồi nợ gốc lãi xử lý rủi ro tăng hơn 60% so với số thu năm 2021.

Còn tại BIDV, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1,96 triệu tỷ đồng, tăng 19% so với đầu năm, trong đó dư nợ tín dụng đạt 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 12.65% so với đầu năm, cao hơn mức thực hiện năm 2021 (11,8%). Tỷ lệ nợ xấu theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN được ngân hàng kiểm soát ở mức 0,9%.

Hay trước đó, tại thời điểm kết thúc 9 tháng đầu năm, báo cáo tài chính các ngân hàng đã cho thấy nợ xấu hâu hểt ngân hàng đều có xu hướng tăng mạnh. Có những nhà băng tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng vượt ngưỡng 3%. Xét về mức độ tăng trưởng, MB, ACB và Vietbank là những ngân hàng có số dư nợ xấu tăng nhanh với mức tăng 30-45% so với cùng kỳ, với số dư nợ xấu lần lượt là 4.415 tỷ đồng, 4.056 tỷ đồng và 2.456 tỷ đồng.

Tuy nhiên, Vietcombank, MB, BIDV, ACB, VietinBank, SHB, Techcombank, TPBank… là những ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, trong đó Vietcombank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên đến gần 500%.

NCB cũng là nhà băng có nợ xấu cao. Phía ngân hàng cho biết nguyên nhân nợ xấu tăng trong kỳ do ngân hàng thực hiện phân loại lại nợ xấu, nợ quá hạn theo đúng tình trạng khoản nợ theo quy định của NHNN, đặc biệt là sau khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng do dịch Covid-19 đã hết hạn vào ngày 30/6/2022.

Nhận định về nợ xấu ngân hàng năm 2022, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tức là nợ xấu của nền kinh tế, hiện nay có xu hướng tăng lên, công tác kiểm soát nợ xấu sẽ gặp khó khăn bởi dịch bệnh kéo dài, tác động có độ trễ nên sẽ ảnh hưởng lớn hơn hoạt động ngân hàng trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

NHNN cho rằng, những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể sẽ bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới, khi đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dự báo sẽ tiếp tục tăng. Thực tế, năm 2022, nợ xấu ngân hàng vẫn là thách thức khó khăn trong bối cảnh lạm phát và lãi suất tăng cao.

Giới phân tích cho rằng, trong những tháng cuối năm 2022, nợ xấu ngành ngân hàng có thể tăng thêm và tiếp tục phân hóa tùy thuộc vào tính chất tệp khách hàng cũng như các yếu tố vĩ mô như sự phục hồi kinh tế và kiểm soát lạm phát. Dự báo về nợ xấu nội bảng năm 2022, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia dự báo nợ xấu nội bảng có thể lên mức 2,3 – 2,5%. Đồng thời, nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024, quy định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan.

Chất lượng tài sản trong 2023 ra sao

Theo kết quả cuộc điều tra xu hướng tín dụng của các tổ chức tín dụng do NHNN thực hiện , dự báo 6 tháng tới và năm 2023, các tổ chức tín dụng quan ngại mặt bằng rủi ro tín dụng tổng thể tiếp tục tăng nhẹ ở hầu hết các lĩnh vực ngoại trừ một số lĩnh vực cho vay phát triển nông, lâm, thủy sản, cho vay đầu tư ứng dụng công nghệ cao, cho vay đầu tư công nghiệp hỗ trợ, cho vay công nghiệp chế biến chế tạo được kỳ vọng rủi ro giảm.

Hai lĩnh vực được dự báo vẫn tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao nhất là cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán.

Trong 6 tháng đầu năm 2023 và cả năm 2023, 61,6%- 64,6% tổ chức tín dụng dự kiến giữ nguyên tiêu chuẩn tín dụng, chỉ có 19,2%-20,2% tổ chức tín dụng dự kiến “thắt chặt nhẹ” tiêu chuẩn tín dụng tổng thể của đơn vị mình, tuy nhiên mức độ thắt chặt đã giảm so với 6 tháng cuối năm 2022 và cả năm 2022, đồng thời có 16,2-17,2% tổ chức tín dụng dự kiến “nới lỏng”.

Dự kiến “thắt chặt” chủ yếu diễn ra ở lĩnh vực “Cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản”, “Cho vay kinh doanh tài chính, ngân hàng và bảo hiểm”, khoản vay trung, dài hạn và khoản vay bằng ngoại tệ. Theo nhận định của các tổ chức tín dụng, nguyên nhân chủ yếu là do “Mức độ rủi ro của thị trường” tăng lên (“Rủi ro từ phía khách hàng”; “Rủi ro ngành nghề”) cùng với những thách thức về triển vọng kinh tế.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản được giới phân tích tài chính nhận định, không chỉ ảnh hưởng triển vọng tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu.

VDSC cho rằng, năm 2023, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục hành trình vượt bão trong chu kỳ bất động sản đi xuống cùng với triển vọng kém tích cực của xuất nhập khẩu, nhưng khả năng chống chịu của từng ngân hàng sẽ tùy thuộc vào chất lượng tài sản và mức độ thận trọng của ngân hàng trong những năm qua. Tuy nhiên, quy mô nợ xấu và chi phí tín dụng sẽ khác nhau giữa các ngân hàng, dựa trên mức độ thận trọng của ngân hàng trong việc trích lập dự phòng và khả năng hồi phục tài chính của của khách hàng.

Trong khi đó, VNDirect nhận định, bên cạnh căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến việc các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về thanh khoản, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao, do USD và lãi suất tiền đồng tăng, ảnh hưởng lên khả năng trả nợ. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023.

Tuy nhiên, với các ngân hàng đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và không liên quan nhiều đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Vì thế, NHNN cho biết, tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…

Đáng chú ý, Phó thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Một trong những thách thức lớn nhất là lạm phát cao, các ngân hàng trung ương lớn trên giới như Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất chứ không chỉ dừng lại ở đó, do đó, áp lực tăng lãi suất rất cao. Với ngành ngân hàng trong nước, các ngân hàng thương mại sẵn sàng tiếp tục hy sinh lợi nhuận để giảm lãi suất, chia sẻ với doanh nghiệp, với nền kinh tế trong năm 2023.

Dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Trong đó, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.

Vì vậy, cá chuyên gia kinh tế – tài chính dự báo trong năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Tương tự, Công ty Chứng khoán SSI đánh giá, năm 2023 sẽ là năm chông gai đối với ngành ngân hàng. Bởi lẽ, khi nhìn ở góc độ trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, nhiều doanh nghiệp bất động sản bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn và tái cơ cấu cho hoạt động kinh doanh của mình.

Điều này có thể sẽ làm gia tăng rủi ro liên quan đến khả năng trả nợ của những công ty này với ngân hàng. Thêm vào đó, tổng dư nợ toàn bộ các khoản cho vay mua nhà tại các ngân hàng SSI phân tích ở mức khoảng 1,3 triệu tỷ đồng. Thế nhưng, thị trường bất động sản lại đang có xu hướng giảm giá và chưa thấy tín hiệu hồi phục.

SSI duy trì quan điểm rằng, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản trong thời gian tới. Trừ khi có các quy định đặc biệt về phân loại nợ, trích lập dự phòng cho các khoản vay,trái phiếu đáo hạn vào năm 2023 được thực hiện, nợ xấu và trích lập dự phòng sẽ là những áp lực tương đối lớn.

Ngân hàng gia tăng bộ đệm dự phòng rủi ro

Theo WiGroup, tỷ lệ nợ xấu đã tăng quý thứ 4 liên tiếp và đạt mức 1,6% toàn hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu chủ yếu đến các khoản nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) đã tăng mạnh hơn 30.000 tỷ đồng (tăng 70%) so với đầu năm 2022.

rủi ro

WiGroup cho rằng, diễn biến này dường như đã nằm trong kịch bản của các ngân hàng nhờ tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức rất cao trước đó (150% trong quý I/2022) giúp giảm đi áp lực trích lập dự phòng nếu nợ xấu tiếp tục gia tăng. Tính đến cuối quý III/2022, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã giảm xuống còn 141%.

Bức tranh nợ xấu năm 2022 của ngành ngân hàng chứng kiến sự gia tăng mạnh về số dư nợ xấu, trong đó có nợ nhóm 5. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản của ngân hàng đã bị ảnh hưởng bởi việc Thông tư 14 này hết hiệu lực.

Theo số liệu của Chứng khoán VNDirect, tỷ lệ nợ xấu trung bình của ngành tăng lên mức 1,44% vào cuối quý III/2022 từ 1,34% vào cuối quý II và 1,28% cuối năm 2021. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) trung bình của ngành đã tăng lên mức 168,7% vào cuối quý III/2022, thấp hơn so với mức 172,6% vào cuối quý II nhưng vẫn cao hơn mức 159,6% vào cuối năm 2021.

Trong khi đó, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, tỷ lệ nợ xấu chỉ nhích nhẹ sau khi nợ tái cơ cấu do Covid-19 bị chuyển nhóm nợ từ quý III/2022, sau khi thông tư 03/2021 cho phép giữ nguyên nhóm nợ. Ngoài ra, hầu hết ngân hàng đều đã trích lập đủ dự phòng cho các khoản nợ cơ cấu và nợ kéo theo, các ngân hàng còn lại chưa trích lập đủ sẽ phải đối mặt với khả năng chi phí tín dụng gia tăng đối với nợ cơ cấu trong những quý tới.

Theo kết quả kinh doanh năm 2022 mới công bố, tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu của Vietcombank đạt 465%, cao nhất toàn hệ thống ngân hàng. VietinBank cũng đã công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 245%, mức cao nhất trong các năm gần đây. Các số liệu công bố trước đó của một số ngân hàng khác như BIDV, Techcombank, ACB, MB… cũng đều cho thấy tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%.

Trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng sẽ có sự gia tăng nợ xấu và chi phí tín dụng trong vài quý tiếp theo do rủi ro từ vĩ mô thế giới ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng ngành xuất nhập khẩu cũng như triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chu kỳ đi xuống của ngành bất động sản và những rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp.

Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng chiếm xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản không chỉ ảnh hưởng triển tăng trưởng tín dụng mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu. Tổng số trái phiếu doanh nghiệp sau khi loại trừ nhóm trái phiếu do ngân hàng phát hành hiện đang lưu hành là khoảng 945 nghìn tỷ đồng, trong đó 27% sẽ đáo hạn vào năm 2023 và 2024, và 12% sẽ đáo hạn vào năm 2025. Gần một phần ba số trái phiếu này nằm trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.

Tuy nhiên, con số này vẫn không bao gồm những trái phiếu đã được phân phối cho các nhà đầu tư cá nhân, nhưng có bảo lãnh thanh toán cũng như những trái phiếu hiện không có trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng vẫn sẽ chịu rủi ro tín dụng liên quan đối với những trái phiếu theo hợp đồng repo.

Đáng chú ý, nhiều chủ đầu tư bất động sản đang phải đối mặt với các khó khăn với lượng hàng tồn kho tăng lên, doanh số bán hàng giảm và chịu áp lực đáng kể về dòng tiền ngắn hạn khi một số trái phiếu sắp đến ngày đáo hạn, đặc biệt là trong giai đoạn từ tháng 12/2022 đến tháng 3/2023, kéo nợ xấu tăng. 

Do đó, các chuyên gia tài chính cho rằng, các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và ít phơi nhiễm với trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Trong đó, nhóm ngân hàng quốc doanh (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank), và một số ngân hàng tư nhân chính sách cho vay và trích lập dự phòng rủi ro thận trọng sẽ lđáp ứng tốt với các tiêu chí trên.

]]>
ACB đạt 17,1 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, kiểm soát nợ xấu dưới 1% https://doanhnhandautu.com/acb-dat-171-nghin-ty-dong-loi-nhuan-truoc-thue-kiem-soat-no-xau-duoi-1/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:57 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5398 ACB kết thúc năm 2022 với mức lợi nhuận trước thuế hợp nhất là 17,1 nghìn tỷ đồng, đạt 114% kế hoạch năm.]]>
ACB kết thúc năm 2022 với mức lợi nhuận trước thuế hợp nhất là 17,1 nghìn tỷ đồng, đạt 114% kế hoạch năm.

Đến cuối năm 2022, tín dụng đạt 413,7 nghìn tỷ đồng, tăng 14,3% và huy động đạt 414 nghìn tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2021. ACB tiếp tục là ngân hàng có tỷ suất sinh lời ROE đứng đầu thị trường với mức 26,5%.  

ACB đạt 17,1 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, kiểm soát nợ xấu dưới 1%

Cùng với tăng trưởng bền vững về lợi nhuận, ACB tiếp tục khẳng định thế mạnh ở chất lượng tài sản vượt trội khi tỷ lệ nợ xấu chỉ 0,74% – thuộc nhóm thấp nhất ngành ngân hàng. Đặc biệt ACB đã duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp dưới 1% liên tục trong suốt 7 năm qua, tỷ lệ bao phủ nợ xấu tiếp tục duy trì ở mức cao, trên 155%.

Bên cạnh đó, ACB cũng là ngân hàng hiếm hoi trên thị trường có danh mục đầu tư trái phiếu rất an toàn, chỉ bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu các tổ chức tín dụng khác, không có trái phiếu doanh nghiệp.ACB còn được đánh giá là ngân hàng có mô hình quản trị rủi ro đạt chuẩn quốc tế hàng đầu khi hoàn thành BASEL III và ILAAP vào năm 2022.

ACB cho biết, trong bối cảnh ngành ngân hàng có nhiều biến động về thanh khoản, lãi suất trong năm qua, ACB vẫn kết thúc năm với tất cả các chỉ số an toàn thanh khoản rất tốt. Cụ thể, tỷ lệ LDR đạt 78%, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn chỉ ở mức 20%.

Tính đến hết năm 2022, tỷ lệ an toàn vốn và tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 riêng lẻ của ACB đạt 12,2% và 12,8%, vượt xa yêu cầu tối thiểu 8% của NHNN, dự trữ đủ đệm vốn an toàn cho tình hình hoạt động bình thường và cả khi thị trường căng thẳng.

Nhờ thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ, mang đến sự tiện lợi cho khách hàng cũng như áp dụng vào danh mục sản phẩm/dịch vụ ngân hàng số, ACB tiếp cận nhiều phân khúc khách hàng hơn và thúc đẩy doanh số giao dịch online tăng 60%.

Trong năm qua ACB cũng đã chào đón thêm hơn 1 triệu khách hàng mới. Bước sang năm 2023, ACB tiếp tục tăng tốc số hóa nhằm mang đến hành trình trải nghiệm xuất sắc cho khách hàng song song với chiến lược quản trị rủi ro thận trọng.

Ngoài việc đầu tư vào hạ tầng công nghệ, nhà băng này cũng đặc biệt coi trọng yếu tố con người, đại diện ACB, ông Từ Tiến Phát, Tổng giám đốc cho biết: “Chúng tôi đang thay đổi mạnh mẽ tư duy và văn hóa nội bộ theo hướng chuyển đổi số, từ đó cùng nhau làm chủ công nghệ và tạo ra những sản phẩm mang lại thành công cho khách hàng”.

ACB có kế hoạch dự kiến phân phối lợi nhuận 2022 đã được đại hội cổ đông thông qua cũng có phương án chia cổ tức 10% bằng tiền mặt (thực hiện trong năm 2023 nếu được NHNN chấp thuận) bên cạnh 15% bằng cổ phiếu.

Trước đó, vào năm 2015, ngân hàng này cũng đã chi trả cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 7%, với gần 896 triệu cổ phần lưu hành khi đó, ACB đã chi hơn 627 tỷ đồng để trả cổ tức năm 2014. Như vậy sau 7 năm, cổ đông ACB mới có cơ hội nhận được cổ tức bằng tiền mặt.

Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu ACB đang giao dịch trong phiên chiều ngày 30/1 ở mức 25.400 đồng/cổ phiếu, tăng nhẹ so với đầu tháng này.

]]>
Nhiều ngân hàng đạt lợi nhuận tỷ USD https://doanhnhandautu.com/nhieu-ngan-hang-dat-loi-nhuan-ty-usd/ Sat, 11 Feb 2023 10:25:48 +0000 https://www.doanhnhandautu.com/?p=5520 Không chỉ có quán quân Vietcombank đạt lợi nhuận trước thuế 37.300 tỷ đồng trong năm qua mà còn nhiều nhà băng khác cũng ghi nhận lợi nhuận tỷ USD trong 2022.]]>
Không chỉ có quán quân Vietcombank đạt lợi nhuận trước thuế 37.300 tỷ đồng trong năm qua mà còn nhiều nhà băng khác cũng ghi nhận lợi nhuận tỷ USD trong 2022.

Theo báo cáo tài chính vừa được công bố, đã có 6 ngân hàng đạt mức lợi nhuận trên 20.000 tỷ đồng trong năm 2022.

Trong đó, Vietcombank dẫn đầu về lợi nhuận toàn ngành với hơn 37.300 tỷ đồng lãi trước thuế, theo sau là Techcombank, BIDV, MB, VPBank, VietinBank.

Nhiều ngân hàng đạt lợi nhuận tỷ USD

Vietcombank tiếp tục giữ vững vị trí quán quân với lợi nhuận trước thuế cao nhất lịch sử đạt gần 37.359 tỷ đồng, tăng gần 36% so với năm trước. Động lực chính thúc đẩy lợi nhuận ngân hàng đến từ thu nhập lãi thuần tăng gần 11.000 tỷ đồng và giảm chi phí dự phòng rủi ro hơn 2.000 tỷ đồng.

Hai ngân hàng quốc doanh khác là VietinBank và BIDV cũng có kết quả kinh doanh khả quan, đều hoàn thành kế hoạch đã được đại hội đồng cổ đông đề ra.

Trong đó, lợi nhuận trước thuế hợp nhất của VietinBank đạt hơn 21.113 tỷ đồng, cao hơn 20% so với năm 2021. BIDV tăng trưởng ấn tượng (tới 70%), lợi nhuận hợp nhất trước thuế đạt 23.058 tỷ đồng, xấp xỉ 1 tỷ USD.

Nhưng không chỉ có nhóm ngân hàng có vốn nhà nước, bên cạnh đó nhóm tư nhân cũng gặt hái được con số lợi nhuận tỷ USD trong năm rồi.

Cụ thể, Techcombank tiếp tục dẫn đầu với lợi nhuận hợp nhất trước thuế đạt 25.600 tỷ đồng, tăng 10% so với năm trước. Dù đứng thứ hai toàn hệ thống, nhưng so với kế hoạch lợi nhuận 27.000 tỷ đồng đề ra hồi đầu năm, ngân hàng này mới thực hiện được gần 95%.

Sau Techcombank, lợi nhuận trước thuế năm 2022 của MB đạt 22.729 tỷ đồng, tăng 38% so với năm 2021. Ngân hàng này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng lợi nhuận tốt trong năm qua khi quy mô dư nợ cho vay khách hàng tăng mạnh mẽ tới 26,7%, lên 460.574 tỷ đồng.

VPBank là cái tên tiếp theo khi kết thúc năm 2022, lợi nhuận trước thuế của VPBank hợp nhất tăng 48% so với năm trước. Trong đó, tại ngân hàng riêng lẻ đạt hơn 24 nghìn tỷ đồng, thể hiện kết quả tích cực qua các chỉ số hiệu quả như chỉ số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và chỉ số chi phí trên thu nhập (CIR) lần lượt đạt 3,7%, 25,6% và 19,3%, nằm trong top dẫn đầu của thị trường. 

Dù lợi nhuận quý IV/2022 giảm 47% so với cùng kỳ, song nhờ kết quả kinh doanh tích cực của những quý trước đó, VPBank vẫn lọt vào nhóm tăng trưởng mạnh nhất hệ thống.

Ngoài ra, Agribank nhiều khả năng cũng sẽ có lợi nhuận vượt 20.000 tỷ đồng trong năm 2022. Trước đó, ngân hàng này báo lãi 6 tháng đầu năm tăng mạnh 60% lên hơn 15.000 tỷ đồng, cao hơn cả VietinBank, Techcombank.

Đồng thời, các ngân hàng tư nhân khác gồm ACB, VIB và HDBank đều ghi nhận lợi nhuận trước thuế năm 2022 trên 10.000 tỷ đồng. Nhóm ngân hàng có lợi nhuận dưới 1.000 tỷ đồng bao gồm: Kienlongbank, PG Bank, Ngân hàng Bản Việt, Saigonbank và NCB.

Các nhận định đưa ra, ngân hàng vẫn sống khỏe trong năm qua nhờ tăng trưởng tín dụng ở mức cao. Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế tính đến hết ngày 31/12/2022 đạt 14,5%, cao hơn mức đạt được của năm 2021 là 13,61%.

Cùng với sự mở rộng mạnh mẽ của quy mô tín dụng, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) tiếp tục duy trì ở mức cao do sự gia tăng đáng kể của tiền gửi Kho bạc nhà nước và tiền gửi không kỳ hạn (CASA), qua đó hỗ trợ đà tăng của thu nhập lãi thuần.

Bên cạnh thu nhập lãi thuần, nhiều ngân hàng cũng ghi nhận những khoản thu đột biến đến từ phí bảo hiểm trả trước và thu hồi nợ xấu trong năm 2022 như VPBank, ACB, VietinBank và Sacombank…

Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng năm 2023 được dự báo thấp hơn năm trước, áp lực chi phí đầu vào tiếp tục tăng khiến biên lãi thuần (NIM) thu hẹp nên lợi nhuận ngân hàng sẽ chỉ tăng trưởng khoảng 10-13% trong năm nay.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) tỏ ra thận trọng hơn khi dự báo cho thời gian tới với 56,4-75,4% TCTD kỳ vọng tình hình kinh doanh cải thiện hơn trong quý I và cả năm 2023, nhưng mức độ kỳ vọng cải thiện thấp hơn so với năm 2022.

95,3% TCTD kỳ vọng lợi nhuận tăng trưởng dương trong năm 2023 so với năm 2022, 2,8% TCTD dự kiến lợi nhuận tăng trưởng âm và 1,9% dự kiến lợi nhuận không thay đổi.

]]>