Các vị chủ toạ kỳ họp bấm nút biểu quyết Nghị quyết về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 . |
Chiều ngày 9/1, trong phiên bế mạc kỳ họp bất thường lần thứ hai của Quốc hội, Nghị quyết về Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được thông qua với 449/489 đại biểu có mặt nhấn nút tán thành (chiếm 90,52%).
29 vị không tán thành và 11 vị không biểu quyết.
Theo Nghị quyết, phạm vi ranh giới quy hoạch là toàn bộ lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, lòng đất, vùng biển, vùng trời Việt Nam.
Với Nghị quyết này, Quốc hội đã thông qua quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu phát triển và những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch.
Theo đó, quah điểm đầu tiên là phát triển bao trùm, nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn.
Nghị quyết cũng nêu rõ, không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng, khu vực và quốc tế gắn với khai thác lợi thế so sánh của quốc gia, từng vùng, từng địa phương trong vùng nhằm huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiềm năng, lợi thế khác cho phát triển để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng, tạo hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; đồng thời, có cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp với điều kiện của nền kinh tế để bảo đảm an sinh xã hội, cung cấp các dịch vụ công cho các khu vực khó khăn, đặc biệt là dịch vụ về y tế, giáo dục, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển với các địa bàn thuận lợi.
Về tầm nhìn đến 2050, Quốc hội thống nhất, giai đoạn 2031 – 2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 6,5 – 7,5%/năm. Đến năm 2050 GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 27.000 – 32.000 USD; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70 – 75%; Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt từ 0,8 trở lên, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.
Còn mục tiêu phát triển đến năm 2030, về kinh tế: phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021 – 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp – xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 50%.
Thời kỳ này, Quốc hội yêu cầu phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế – xã hội; tập trung phát triển hai vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với hai cực tăng trưởng là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hành lang kinh tế Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, Mộc Bài – Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hoà – Vũng Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước.
Phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; phấn đấu từ 3 – 5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững và gắn với đô thị hoá; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt trên 90%, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.
Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.
Từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng trung du và miền núi phía Bắc
Quy hoạch tổng thể quốc gia 2021-2030, tầm nhìn 2050 định hướng tổ chức không gian phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế xã hội; 4 vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia, và các hành lang kinh tế.
Theo đó, 6 vùng kinh tế xã hội, gồm: Vùng trung du và miền núi phía Bắc (14 tỉnh, thành phố); Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (14 tỉnh, thành phố); Vùng Tây Nguyên (5 tỉnh); Vùng Đông Nam Bộ (6 tỉnh, thành phố) và vùng đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh, thành phố).
4 vùng động lực, cực tăng trưởng, gồm vùng động lực phía Bắc, miền Trung, phía Nam và Đồng bằng sông Cửu Long.
Từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng trung du và miền núi phía Bắc; khu vực Bắc Trung Bộ (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) kết nối giữa miền Trung và đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Nguyên; khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (khu vực Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và phụ cận) – Nghị quyết nêu rõ.
Về hành lang kinh tế, Nghị quyết nêu rõ, tới năm 2030, Việt Nam sẽ phát triển hành lang kinh tế Bắc – Nam trên cơ sở trục giao thông Bắc – Nam phía Đông, kết nối các vùng động lực, các đô thị lớn, trung tâm kinh tế.
Hành lang kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh sẽ là trục kết nối chủ đạo của vùng động lực phía Bắc, kết nối vùng trung du và miền núi phía Bắc với các trung tâm kinh tế, cảng biển lớn của cả nước, hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh; thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư giữa các địa phương của Việt Nam và khu vực phía Tây Nam Trung Quốc.
Hành lang kinh tế Mộc Bài – TP HCM- Biên Hoà – Vũng Tàu gắn với hành lang kinh tế xuyên Á, là cửa ngõ ra biển của khu vực Đông Nam Bộ, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên.
Trong dài hạn, Việt Nam sẽ từng bước hình thành, hình thành hành lang kinh tế Tây Nguyên – Đông Nam Bộ nhằm thúc đẩy phát triển, liên kết vùng, gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh. Hành lang kinh tế này sẽ kết nối các vùng nguyên liệu cây công nghiệp, công nghiệp chế biến, liên kết phát triển du lịch “con đường xanh Tây Nguyên”, tăng cường tác động lan tỏa của các đô thị trung tâm vùng.
Cùng với đó là hình thành các hành lang kinh tế Đông – Tây
Về huy động nguồn lực đầu tư thực hiện quy hoạch tổng thể quốc gia, sẽ gồm từ nguồn ngân sách, tư nhân và vay nước ngoài, theo Nghị quyết,
Theo đó, nguồn lực ngân sách thực hiện quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ thông qua cơ cấu lại, chi đầu tư công, đẩy nhanh thoái vốn, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước sẽ hoàn thiện chính sách và có cơ chế phù hợp để khai thác nguồn lực từ đất đai cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội. Trong đó, tăng cường nguồn thu cho ngân sách từ đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án sử dụng đất thuộc quy hoạch và tại các khu vực phát triển đô thị… để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị.
Hoàn thiện khung khổ luật pháp, chính sách phát triển các loại thị trường vốn, nhất là thị trường chứng khoán, thị trường vốn đầu tư mạo hiểm nhằm huy động nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Đổi mới mạnh mẽ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và chuẩn bị đồng bộ các điều kiện như hạ tầng, thể chế, nhân lực… để tăng hiệu quả đầu tư nước ngoài phục vụ cho các mục tiêu phát triển.
Huy động vốn vay nước ngoài với điều kiện, lãi suất ưu đãi, phù hợp, hiệu quả, tập trung cho một số lĩnh vực chủ chốt; ưu tiên đầu tư cho các dự án trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng gắn với phát triển bền vững, có hiệu ứng lan tỏa như thích ứng biến đổi khí hậu, năng lượng sạch, nâng cao chất lượng môi trường, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo.
Đã lược bỏ những nội dung quá cụ thể, chi tiết
Báo cáo trước khi Quốc hội bấm nút, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, tiếp thu ý kiến của đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã rà soát lược bỏ những nội dung quá cụ thể, chi tiết để cụ thể hóa ở các quy hoạch cấp dưới, bảo đảm yêu cầu bao quát, ngắn gọn.
Về quan điểm, tầm nhìn và mục tiêu phát triển, ông Thanh cho hay, đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung về văn hóa, kinh tế biển, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế biển xanh, kinh tế số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; lợi thế so sánh của quốc gia; “phát triển kinh tế nông nghiệp sinh thái giá trị cao thuộc nhóm hàng đầu thế giới”.
Quá trình thảo luận, có ý kiến cho rằng, thời gian qua kinh tế vùng chưa phát huy được hết tiềm tăng do thiếu cơ chế điều phối vùng. Do vậy, đề nghị bổ sung định hướng hình thành cơ quan điều phối vùng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu và thể hiện tại Nghị quyết, giao Chính phủ nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức, cơ chế điều phối vùng; nâng cao hiệu quả hoạt động hội đồng điều phối vùng gắn với các nhiệm vụ điều phối, th c đẩy liên kết cụ thể; nghiên cứu việc xây dựng cơ chế về phối hợp nguồn lực giữa các địa phương.
Các ý kiến đề nghị bổ sung vùng động lực phát triển Thanh Hóa, Nghệ An kết nối miền Trung và Đồng bằng sông Hồng, bổ sung Ninh Thuận, Bình Thuận để làm rõ vùng động lực khu vực duyên hải Nam Trung Bộ; bổ sung hành lang Bờ Y – Đà Nẵng – Quảng Nam, hành lang Nam Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột – Khánh Hoà cũng đã được tiếp thu, Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh báo cáo Quốc hội.