Kỳ vọng dự trữ ngoại hối tăng và đạt 102 tỷ USD vào cuối năm 2023
Trong báo cáo vĩ mô mới cập nhật, Chứng khoán VNDirect kỳ vọng dự trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ phục hồi lên mức 3,3 tháng nhập khẩu và đạt 102 tỷ USD vào cuối năm 2023 từ mức hiện tại là 89 USD tỷ trong năm 2022.
Các chuyên gia phân tích của VNDirect đã đưa ra dự báo và cho hay với việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất vào năm 2023 và dự trữ ngoại hối của Việt Nam cải thiện sẽ chặn đà giảm giá của VND. Đồng thời, khả năng tỷ giá cuối năm 2023 giảm 1-2%.
Bên cạnh đó, trong năm 2023, các chuyên gia cũng kỳ vọng thặng dư thương mại đạt mức 13,4 tỷ USD, từ mức thặng dư thương mại 12,4 tỷ USD trong năm 2022. Ngoài ra tài khoản vãng lai chuyển sang thặng dư ở mức 1,4% GDP vào năm 2023 từ mức thâm hụt dự kiến là 0,8% GDP trong năm 2022.
Theo số liệu được công bố vào tháng 3/2022, dự trữ ngoại hối của Việt Nam ở mức cao kỷ lục, gần 110 tỷ USD. Tuy nhiên, sau đó Ngân hàng Nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc cân bằng ba mục tiêu chính là kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng.
Trong 10 tháng đầu năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã phải bán một lượng lớn dự trữ ngoại hối để ổn định tỷ giá (ước gần 20% dự trữ ngoại hối). Điều này đã khiến dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm xuống dưới mức khuyến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khi về mức thấp hơn 3 tháng nhập khẩu.
Năm 2023, CVNDirect kỳ vọng thặng dư thương mại đạt mức 12 tỷ USD, từ mức thặng dư thương mại dự kiến là 10,4 tỷ USD trong năm 2022. Đồng thời, VNDirect cũng kỳ vọng tài khoản vãng lai chuyển sang thặng dư ở mức 0,4% GDP vào năm 2023 từ mức thâm hụt dự kiến là 1,3% GDP trong năm 2022.
Do đó, Công ty chứng khoán trên nhận định, trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ phục hồi lên mức 3 tháng nhập khẩu và đạt 102 tỷ USD vào cuối năm 2023 từ mức hiện tại là 89 tỷ USD. Tuy nhiên, VNDIrect cho biết, có một số rủi ro chính cho dự báo trên bao gồm lạm phát cao hơn dự kiến, đồng USD mạnh hơn dự kiến có thể gây thêm áp lực lên VND và các đối tác thương mại lớn của Việt Nam suy thoái mạnh hơn dự kiến.
Trên thực tế, trong năm qua VND từng có thời điểm mất giá 7-8% so với cuối năm 2021, nhưng đến ngày giao dịch cuối cùng của năm 2022, VND chỉ còn mất giá 3,53%, bằng một nửa so với hai tháng trước.
Lãi suất giảm dần nửa cuối năm, giữ lạm phát trung bình năm 2023 dưới 4,5%
Bên cạnh tỷ giá, VNDirect cũng đưa ra nhận định đà tăng của lãi suất tiền gửi có thể chậm lại trong nửa đầu năm 2023. Cụ thể, lãi suất tiền gửi tiếp tục chịu áp lực tăng trong nửa đầu năm 2023.
Nguyên nhân là do hạn chế thanh khoản trong bối cảnh khủng hoảng niềm tin trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, nhu cầu huy động vốn của các ngân hàng tăng mạnh để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn vốn cũng như đáp ứng nhu cầu vay tăng cao của nền kinh tế và tăng trưởng tiền gửi đã chậm hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng kể từ đầu năm 2022, do đó các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để thu hút thêm tiền gửi.
Nhưng đến nửa cuối năm 2023, các chuyên gia kỳ vọng lãi suất tiền gửi sẽ giảm nhẹ nhờ áp lực tỷ giá giảm cho phép Ngân hàng Nhà nước bơm thanh khoản vào hệ thống và ổn định mặt bằng lãi suất, lạm phát trong nước được kiểm soát và đáp ứng mục tiêu của Chính phủ là giữ lạm phát trung bình năm 2023 dưới 4,5%.
Các chuyên gia cũng dự báo lạm phát năm 2023 sẽ theo hướng cao trong những tháng đầu năm nhưng giảm dần. Khó khăn cũng sẽ qua, thanh khoản sẽ tốt hơn ở những tháng cuối năm. Lãi suất sẽ bắt đầu giảm từ quý 2/2023.
Đồng thời, Chính phủ xem xét ban hành các chính sách hỗ trợ và củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng giúp lãi suất tiền gửi có thể giảm nhẹ.
Vì thế, VNDirect dự báo lãi suất huy động có thể tăng nhẹ 0,5% trong năm 2023, thấp hơn đáng kể so với mức tăng khoảng 2-3% trong năm 2022. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại có thể tăng lên mức 8,0-8,5%/năm (bình quân) vào cuối năm 2023.
Về định hướng giải pháp điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2023, Ngân hàng Nhà nước cho hay, trong thời gian tới, bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục còn nhiều yếu tố bất lợi và khó lường, các NHTW tiếp tục duy trì thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất để tiếp tục kiểm soát lạm phát.
Mặc dù lạm phát trong nước hiện vẫn đang được kiểm soát, tuy nhiên, áp lực sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2023, đặc biệt là lạm phát cơ bản có thể tạo nhiều thách thức đối với kiểm soát lạm phát trong năm 2023, đến từ cả yếu tố bên cung (chi phí đẩy) và bên cầu (cầu kéo).
Về phía cung, tác động vòng 2 từ giá hàng hóa thế giới tăng cao trong các năm 2020-2022 sẽ tiếp tục được phản ánh vào chi phí sản xuất (lạm phát nhập khẩu) và từ đó tác động vào chi phí tiêu dùng các mặt hàng trong nước.
Về phía cầu, dự kiến kinh tế trong nước tiếp tục quá trình phục hồi, qua đó thúc đẩy phục hồi và tăng nhanh tổng cầu của nền kinh tế, gây áp lực lên giá cả. Theo Ngân hàng Nhà nước chúng ta không thể chủ quan với rủi ro lạm phát năm 2023.
Do đó, để thực hiện thành công mục tiêu lạm phát bình quân năm 2023 khoảng 4,5% mà Quốc hội đặt ra, thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát; góp phần ổn định vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế; điều hành lãi suất phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô, diễn biến lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ, hỗ trợ phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ với các biện pháp và công cụ chính sách tiền tệ để ổn định thị trường ngoại tệ; sẵn sàng can thiệp thị trường tiền tệ, ngoại hối để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của TCTD, qua đó góp phần ổn định thị trường, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cho rằng, hiện nay, vốn đầu tư trung dài hạn của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, trong khi huy động vốn của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, do đó hệ thống các TCTD đối mặt với rủi ro thanh khoản, rủi ro kỳ hạn.
Để đảm bảo nguồn vốn cho phát triển kinh tế thì cần phát triển thị trường vốn một cách an toàn, bền vững như thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán, theo đó cần rà soát lại các quy định pháp lý và có giải pháp khắc phục những bất cập hiện nay trên các thị trường này.
Làm sao để tìm điểm cân bằng hài hòa giữa điều hành lãi suất và điều hành tỷ giá?
Ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) tại Chương trình Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2023 (tổ chức ngày 11/01/2023) cho biết, trước hết nói về điều hành vĩ mô nói chung và điều hành chính sách tiền tệ nói riêng cho thấy, năm 2022 đối mặt với khó khăn, thách thức chưa từng có từ biến động phức tạp, khó lường của kinh tế thế giới và trong nước.
Quay trở lại thời điểm cuối năm 2021, đầu năm 2022, hầu hết các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách tiền tệ trên thế giới đều sai lầm khi nhận định lạm phát toàn cầu chỉ có tính tạm thời.
Nhưng thế giới đã đối mặt với lạm phát cao nhất 40 năm trở lại đây, buộc Fed và nhiều NHTW trên thế giới phải nhanh chóng chuyển hướng từ việc nới lỏng chính sách tiền tệ không giới hạn trong giai đoạn dịch bệnh, năm 2020 – 2021, sang thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất với tốc độ nhanh, mạnh, khiến mặt bằng lãi suất thế giới tăng cao (thông thường, Fed điều chỉnh 0,25% mỗi lần tăng hoặc giảm lãi suất chính sách, nhưng trong năm 2022, Fed đã tăng 4 lần lãi suất với mức 0,75% mỗi lần tức là tăng gấp 3 lần mức thông thường).
Theo ông Quang, bối cảnh đó đã tạo nên mặt bằng lãi suất toàn cầu rất cao, làm cho đồng USD tăng ở mức cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Cuối tháng 9/2022, chỉ số đô la (DXY) đã lên mức 115, tức là tăng 21% so với đầu năm 2022, tạo áp lực rất lớn lên việc điều hành chính sách tiền tệ không chỉ ở Việt Nam mà của các nước đang phát triển và những nước mới nổi.
Trong bối cảnh trên, USD trở thành “hầm trú ẩn” cho các nhà đầu tư, dòng tiền chảy ra khỏi các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển. Dự trữ ngoại hối của các nước sụt giảm gần 10.000 tỷ USD, giảm gần 9% tổng dự trữ ngoại hối của các nước trước xu hướng dòng tiền đổi chiều.
Trong khi đó, trong nước, kinh tế phục hồi nhưng chưa bền vững; thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp đều gặp khó khăn đã tạo áp lực rất lớn đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ.
Cũng theo Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, với bối cảnh đó, sự chống chọi của chính sách tiền tệ của các nước, đặc biệt của Việt Nam – một nước có độ mở kinh tế lớn với các cú sốc này là rất căng thẳng.
Làm sao để tìm điểm cân bằng hài hòa giữa điều hành lãi suất và điều hành tỉ giá? Nếu hy sinh tỷ giá để tỷ giá tăng cao, đồng nội tệ mất giá nhiều thì sẽ giữ được lãi suất, giữ được dự trữ ngoại hối; nhưng ngược lại, nền kinh tế Việt Nam độ mở rất lớn, nếu để tỷ giá mất giá nhanh và mất giá quá lớn thì chúng ta sẽ nhập khẩu lạm phát, từ đó không kiểm soát được lạm phát, các cân đối vĩ mô sẽ không kiểm soát được và có thể rơi vào mất ổn định kinh tế vĩ mô.
“Nhúng” hệ điều hành chính sách tiền tệ vào bối cảnh kinh tế vĩ mô nói chung sẽ cho thấy được bức tranh chung mà ngành Ngân hàng phải đối mặt với những thách thức thời gian qua cũng như trong năm 2023.
Tại cuộc họp của Chính phủ với các địa phương, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ ra thách thức lớn mà ngành ngân hàng phải tập trung xử lý trong năm 2022. Cụ thể là: Làm thế nào để điều hành tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn phải đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng khi một số chỉ tiêu tỷ lệ tín dụng/huy động vốn và dư nợ tín dụng/GDP đã ở ngưỡng cảnh báo.
Làm thế nào ổn định được thị trường ngoại hối khi Việt Nam có độ mở cửa lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng USD tăng giá mạnh, Việt Nam đang trong giai đoạn giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ của Mỹ; Làm thế nào ổn định được thị trường tiền tệ và thanh khoản hệ thống trước sự cố tháng 10 trên thị trường liên ngân hàng khi niềm tin thị trường suy giảm cùng với những biến cố trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản.
Theo ông Quanh, xét tỷ lệ tín dụng/GDP, hiện nay Việt Nam đã đạt 124%, là mức cao nhất đối với các nước có mức thu nhập trung bình thấp theo thống kê của WB, còn Moody’s thì cảnh báo tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam là mức cao nhất của các quốc gia xếp hạng tín nhiệm Ba và Baa.
Tổng dư nợ tín dụng của Ngành ngân hàng tiến tới xấp xỉ 12 triệu tỷ đồng, đó là một con số rất lớn. Vì vậy, dư địa điều hành tín dụng trong bối cảnh nêu trên là rất hạn hẹp. Về cơ bản, trong các nguồn lực để tạo ra nguồn vốn phục vụ cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế- xã hội thì tín dụng ngân hàng chỉ là một trong các nguồn vốn bên cạnh nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn từ thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, nguồn vốn đầu tư công, nguồn vốn FDI, nguồn vốn kiều hối…
Do đó, để phát triển kinh tế – xã hội phải khơi thông và tạo được sự kết nối, phát triển đồng bộ của tất cả các nguồn vốn này, mà trong đó tín dụng ngân hàng được xem là hạt nhân là mạch máu kết nối các nguồn vốn này.
Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng nên trong bối cảnh thị trường thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản biến động phức tạp, khó lường, có dấu hiệu thu hẹp, thì càng gây áp lực lớn lên cân đối vốn tín dụng ngân hàng và công tác điều hành chính sách tiền tệ không chỉ trong năm 2022 mà cả trong năm 2023 tới đây.
Ngoài ra, tình trạng giải ngân đầu tư công chậm cũng gia tăng sức ép cung ứng vốn cho nền kinh tế lên tín dụng ngân hàng.
“Với đặc thù đó, định hướng điều hành trong năm 2023 của NHNN, bên cạnh việc hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế thì mục tiêu quan trọng nhất, xuyên suốt là điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo giữ được sự ổn định của đồng tiền, kiểm soát được lạm phát. Từ đó, mục tiêu quan trọng với nội bộ Ngành ngân hàng là duy trì được sự hoạt động lành mạnh, ổn định, bền vững của hệ thống TCTD”, ông Quanh nhấn mạnh.
Với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường trong và ngoài nước, với thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng như đề cập nêu trên thì tập trung trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2023 là một mặt tiếp tục hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng kinh tế, nhưng mặt khác không chủ quan với lạm phát trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu, mức lãi suất Fed còn tiếp tục neo cao và kéo dài đến hết năm 2023.
Vì vậy, theo ông Quanh, độ trễ của tác động lạm phát nhập khẩu đối với nước ta còn lớn, nên điều hành chính sách tiền tệ không thể chủ quan với các rủi ro này. Để đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế thì tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các giải pháp, công cụ chính sách tiền tệ khác sẽ được NHNN điều hành rất đồng bộ, linh hoạt nhưng không xa rời mục tiêu kiểm soát lạm phát, trên tinh thần thấm nhuần quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Mục tiêu quan trọng nhất của điều hành chính sách tiền tệ năm 2023 của Ngân hàng Nhà nước là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, còn cách thức, công cụ điều hành thì rất linh hoạt, tùy từng thời điểm thị trường để tùy cơ ứng biến đưa ra các giải pháp, chính sách, lộ trình phù hợp để vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không lơ là với rủi ro lạm phát.